Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh ngoại khoa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh ngoại khoa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

  1. Các khối u ở cổ :
U tân dịch, u quái, u máu ở cổ có thể gây tắc đường hô hấp ở trẻ sau sinh, đặc biệt khi u lan vào sàn miệng, vào lưỡi bệnh nhi.Trong chăm sóc cần phát hiện sớm các dấu hiệu suy hô hấp do khối u chèn ép.


   
   2.   Vẹo cổ bẩm sinh :
         Biểu hiện bằng một khối u xơ, đường kính 1 – 2cm, không di động, xảy ra 2 – 3 tuần sau sinh thường do sang chấn sản khoa, 80% trẻ trở về bình thường sau 2 -3 tháng. Có thể chữa khỏi nhờ tập vật lý trị liệu.
3        Hội chứng Pierre Robin :
- Biểu hiện bằng tam chứng : Chẻ vòm hầu, tụt lưỡi và cằm lẹm.
- Tắt đường hô hấp trên do tụt lưỡi rất hay gặp sau sinh hay muộn hơn là 3 tuần sau sinh.
- Cách chăm sóc :
·         Tư thế trẻ : Nằm sấp, đầu nghiêng sang một bên, có thể cao hay thấp.Tuy nhiên, đầu cao làm tăng nguy cơ tụt lưỡi, đầu thấp có nguy cơ trào ngược dạ dày thực quản (bình thường đầu cao từ 10 - 15˚)
·         Bệnh nhân có chẻ vòm hầu: nên nuôi ăn qua ống thông dạ dày (vì sức bú của bé rất kém) tốc độ chậm, chú ý theo dõi sát đề phòng trẻ bị trào ngược gây hít sặc rất nguy hiểm.
4. Thoát vị hoành bẩm sinh :
- Là tình trạng các tạng trong ổ bụng thoát vị lên lồng ngực qua các lỗ khiếm khuyết của cơ hoành, thường xảy ra bên trái nhiều hơn bên phải, 85 – 90 % thoát vị qua khe Bochdaleck.
- Trẻ thường biểu hiện : tím tái, khó thở, bụng xẹp, lồng ngực nhô cao, tim lệch phải…
- Chăm sóc :
·         Cho trẻ nằm đầu cao 30˚, nghiêng bên thoát vị, giữ ấm, đặt thông dạ dày để giải áp.
·         Không thở NCPAP, không giúp thở bằng mask để tránh khí vào dạ dày gây chèn ép đường hô hấp.
5. Teo thực quản :
- Sau sinh, biểu hiện lâm sàng của thể điển hình( type 3): tăng tiết nước bọt, tím tái, sặc ho khi nhấp nước, hay muộn hơn là suy hô hấp do viêm phổi, không đặt được thông dạ dày ( do bị tắc nghẽn nơi lồng ngực)
      - Chăm sóc :
·         Đặt trẻ tư thế đầu cao, nghiêng phải.
·         Đặt thông hút dịch tiết ở miệng và nơi túi cùng( nơi teo) liên tục với áp lực nhẹ.
6. Teo ruột :
- Biểu hiện lâm sàng: ói dịch vàng, chậm tiêu phân su, bụng chướng khi tắc thấp hoặc không chướng nếu tắc cao ở tá tràng hay hổng tràng.
- Chăm sóc: Nằm đầu cao tránh hít dịch ói, ủ ấm, hút liên tục thông dạ dày để bớt chướng bụng.
7. Thoát vị chân cuống rốn và hở thành bụng bẩm sinh :
- Trẻ có nguy cơ hạ thân nhiệt, mất nước, nhiễm trùng, nghẹt ruột, hoại tử và tắc ruột.
- Xử trí ban đầu là ủ ấm, truyền dịch, đặt thông dạ dày, thông tiểu.
- Nếu thoát vị chân cuống rốn: dùng gạc vô khuẩn thấm nước muối sinh lý ấm bao bọc bảo vệ khối thoát vị, trách để rách túi.
- Nếu hở thành bụng : dùng gạc vô khuẩn thấm nước muối sinh lý ấm bao bọc khối thoát vị, tránh tổn thương ruột, mạch máu, mạc treo.
8. Thoát vị màng não tủy :
- Là một nang phồng lên, bên trong chứa dịch não tủy và thông thương với khoang dưới nhện.
- Vị trí thường gặp ở cột sống thắt lưng chiếm 80% trường hợp.
- Chăm sóc :
·         Tránh sang chấn và làm tăng áp lực nơi tổn thương.
·         Dùng gạc vô khuẩn thấm nước muối sinh lý ấm đắp lên chỗ thoát vị, nếu bao thoát vị bị vỡ, dịch não tủy dò ra ngoài, phải dùng gạc tẩm betadine 2% che phủ và kháng sinh phòng ngừa.
·         Tránh lây nhiễm phân vào khối thoát vị.

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Khi dùng quá nhiều chất cồn (từ rượu, bia) sẽ sinh ra các bệnh lý như bệnh lý liên quan đến gan, rối loạn tâm thần – hành vi, thoái hóa hệ thần kinh, nhiễm độc, bệnh dạ dày và bệnh tim mạch.

Khi chất cồn khi vào cơ thể, nếu vượt quá mức cho phép dù chỉ rất ít cũng sẽ gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe thể chất và tâm thần. Nó làm giãn các mạch máu, đặc biệt là các mạch máu ngoại biên vì thế cho nên sau khi dùng đồ uống có cồn chúng ta lại có cảm giác ấm lên.

Ảnh minh họa. nguồn: internet
Cồn là chất có tác động rất lớn đến bộ não, ngay cả khi chỉ cần uống một lượng với nồng độ khoảng 0,25%o trong máu, tương đương với 0,3 lít bia hoặc 100ml rượu vang. Cồn gây tác động rất lớn đến hệ thống thần kinh mà đặc biệt là lên não, chúng  làm cho góc nhìn bị thu hẹp lại và thời gian phản ứng chậm đi. Do vậy, người uống rượu, bia bị hạn chế rất lớn trong việc điều khiển các loại phương tiện giao thông và rất dễ dẫn đến tai nạn giao thông. Nghiên cứu về tác hại của rượu của một số tác giả cho kết quả là nếu uống 50g cồn hằng ngày sẽ để lại tác hại vĩnh viễn, với khoảng 100.000 tế bào não sẽ bị giết chết khi uống một ly bia. Trong một cơn say rượu, con số tế bào não chết đi có thể lên đến 10.000.000.
Bên cạnh đó, đồ uống có cồn cũng ảnh hưởng đến khả năng tình dục và có con. Mặt khác, cồn là chất có tác dụng độc hại đến tinh hoàn và tinh trùng cho nên nếu nam giới uống rượu trước khi sinh hoạt tình dục chẳng những làm tăng khả năng sảy thai ở người vợ mà còn có thể ảnh hưởng đến việc phát triển của đứa con sinh ra. Nếu người mẹ uống rượu trong thời gian mang thai dễ sinh ra các đứa trẻ có khuyết tật về trí tuệ.
Những bệnh do uống rượu
Viêm gan: viêm gan do rượu là tình trạng viêm và hoại tử tế bào gan kéo dài trong khoảng thời gian 1 – 2 tuần với các triệu chứng như chán ăn, buồn nôn, ói, đau bụng, sốt, vàng da, thỉnh thoảng có rối loạn tâm thần. Bệnh có thể diễn tiến đến xơ gan do rượu qua nhiều năm. Xơ gan là tình trạng tế bào gan bị tổn thương thường xuyên mà biểu hiện ban đầu bằng tình trạng gan nhiễm mỡ, nếu ngừng uống rượu ở giai đoạn này bệnh có thể tự khỏi. Trong một số trường hợp sau khi uống rượu, bia vào có cảm giác nhức đầu và dùng thuốc giảm đau với thuốc thông thường là Panadol, đây là điều hết sức nguy hiểm vì rượu có thể gây tổn thương gan dù uống ít nếu dùng chung với thuốc có chứa acetaminophen như Panadol…
Sảng run: bệnh sảng run chỉ xảy ra ở người nghiện rượu mà nguyên nhân là do nhiễm độc hệ thần kinh và rối loạn chuyển hóa do rượu. Bệnh xuất hiện sau khi ngừng uống rượu từ khoảng 12 – 48 giờ với 2 nhóm triệu chứng nổi bật:
- Rối loạn ý thức kiểu mê sảng làm cho người bệnh mất năng lực định hướng không gian và thời gian, nhận dạng người thân kém, mất ngủ hoàn toàn hay ngủ chập chờn vật vã với nhiều ác mộng; luôn ở trong tình trạng lo âu, sợ hãi, căng thẳng, nhìn nhưng không thấy; có các ảo giác, ảo thanh… nên hay có các phản ứng tự vệ nguy hiểm cho người xung quanh.
- Các rối loạn về thần kinh như toàn thân run lập cập, nói chuyện lắp bắp không rõ ràng, đi loạng choạng nên rất dễ vấp ngã gây gãy xương, vỡ tạng… Trường hợp nặng hơn, có thể còn có cả cơn co giật như động kinh.
Người bị sảng run còn có các rối loạn thần kinh thực vật trầm trọng như ra mồ hôi đầm đìa như tắm ngay cả khi nghỉ ngơi, khát nước, da tái, kém đàn hồi, tiểu ít, buồn nôn, nôn, đau bụng, đi lỏng, sốt, tim đập nhanh, huyết áp không ổn định… Sảng run có thể tự thuyên giảm sau vài ngày, tuy nhiên có rất ít trường hợp. Phần lớn trường hợp nếu không điều trị sẽ tiến triển xấu, các rối loạn ngày càng trầm trọng, khiến người bệnh có nguy cơ tử vong.
Bệnh gút: do lượng cồn tồn lưu trong cơ thể quá nhiều nên gây ra bệnh gút (gout). Khi uống nhiều bia, rượu vào cơ thể, lượng cồn dư thừa chúng tích tụ lại và sau nhiều lần như thế sẽ gây ra những rối loạn trong quá trình trao đổi chất và chuyển hóa năng lượng. Sự tích tụ chất cồn trong các ổ khớp sẽ dẫn đến bệnh gút chúng phá hủy mạn tính các ổ khớp, gây nên các cơn viêm khớp cấp với các biểu hiện sưng, nóng, đỏ và đau nhức. Mỗi lần uống liên tục nửa lít rượu mạnh sẽ làm gia tăng lượng acid uric trong máu.
Bệnh tim mạch: tim cũng có cấu tạo là một loại cơ, mà các loại đồ uống có nồng độ cồn cao làm suy yếu các cơ nên đương nhiên sẽ làm suy yếu cơ tim. Khi cơ tim bị suy yếu thì nó sẽ không thể bơm máu một cách hiệu quả như bình thường và khi đó sẽ xảy ra hiện tượng ứ trệ tuần hoàn ở phổi. Khi nồng độ cồn càng cao, sự tác động lên tim càng lớn, chúng làm hẹp các mạch máu và tăng áp lực trong máu, buộc tim phải hoạt động mạnh hơn. Ngoài ra, chúng còn gây ra chứng rối loạn nhịp tim.
Bệnh phổi: khoảng 5% lượng cồn trong máu sẽ nhanh chóng khuếch tán vào trong các phế nang. Tại đây dung dịch cồn sẽ được làm ấm và chuyển chúng thành dạng hơi mà khi chúng ta thở ra, các phân tử hơi này sẽ là tiêu chí để đo lượng cồn trong hơi thở. Nếu uống rượu trong một thời gian dài, chất cồn sẽ làm mất đi chất chống oxy hóa quan trọng trong phổi, từ đó phổi bị tổn thương vĩnh viễn vì thế người nghiện rượu rất dễ mắc các bệnh nguy hiểm như viêm phổi cũng như các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp khác.
Bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng: sau khi được đưa vào cơ thể, dạ dày là trạm dừng chân đầu tiên của cồn. Chỉ trong vòng 5 phút, 20% lượng bia, rượu uống vào sẽ lập tức khuếch tán vào máu. Phần bia, rượu còn tồn lưu tại dạ dày sẽ làm suy yếu các biểu mô bảo vệ dạ dày, do đó làm tăng nguy cơ mắc các bệnh viêm nhiễm với các triệu chứng như ợ nóng, viêm loét và chảy máu.
Ngoài ra, nghiện rượu còn gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và tình hình an ninh trật tự xã hội như bạo hành gia đình và gây rối trật tự  xã hội.
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -