Hiển thị các bài đăng có nhãn cách phòng bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn cách phòng bệnh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Con tôi 5 tuổi, bị bón lâu ngày. Tôi đi khám thì bác sĩ cho thuốc uống và cho chụp XQ đại tràng cản quang. Sau chụp thì kết luận là dài đại tràng và chuyển xuống phòng khám ngoại. Phòng khám ngoại bác sĩ xem phim và cũng cho thuốc đi về. Tôi rất lo lắng, không biết bệnh này có nặng không và điều trị như thế nào? Xn bác sĩ tư vấn giúp.


Chị Hòa thân mến,
Tình trạng táo bón được định nghĩa bởi sự đi tiêu không thường xuyên và/hoặc tiêu phân cứng và/hoặc khó đi tiêu hoặc khoảng cách 2 lần đi tiêu quá xa nhau, thường là trên 3 ngày.
Táo bón thường do 2 nhóm nguyên nhân: bất thường bẩm sinh đường ruột thường gặp nhất là phình đại tràng bẩm sinh và táo bón chức năng.
Đa số táo bón ở trẻ em là táo bón chức năng và không có nguyên nhân thực thể. Có nhiều yếu tố  thể gây ra bón:
- Trẻ quá ham chơi hoặc không đủ kiên nhẩn ngồi lâu trên bàn cầu.
- Tại trường học bé không muốn vào nhà vệ sinh vì quá đông hoặc quá bẩn.
- Trẻ không muốn vào nhà vệ sinh vì sợ đau khi đi tiêu như những lần trước đó. Phân không được thải ra ngoài sẽ ứ đọng lại bên trong đại tràng và nước bị hấp thu khiến phân trở nên khô và cứng.
- Thay đổi sữa hoặc chế độ ăn.
- Ăn nhiều đường hoặc thức ăn ngọt.
- Sốt, mất nước, nằm lâu, ăn ít.
Để giúp con bạn khỏi táo bón, bạn cần :
-Cho trẻ đi cầu vào một giờ nhất định trong ngày để hình thành phản xạ đi cầu đều đặn
-Uống nhiều nước: uống 500-600ml nước/ngày
-Ăn nhiều rau xanh và quả chín: chọn các loại rau quả có tính chất nhuận trường như rau lang, mồng tơi, rau dền hay củ khoai lang, đu đủ, cam, xoài, nho, thanh long, bưởi, quýt…
-Chọn loại sữa có bổ sung chất xơ (fibre) …
Tình trạng chụp Xquang đại tràng cản quang và kết luận dài đại tràng chỉ nói lên được tình trạng ruột già dài, có thể có tình trạng ứ đông phân chứ cũng chưa kết luận được bệnh lý gì chắc chắn. Nếu theo các chỉ dẫn trên tốt thì sau 1 thời gian chụp phim lại có khi ruột lại trờ về bình thương. Do đó, chị không nên quá lo lắng. Nếu có nhu cầu tư vấn thêm, chị nên cho bé tái khám lại vào phòng số 3 mỗi chiều thứ 3 hàng tuần tứ 13g.
Thân  ái.

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Máy tạo nhịp (tim ) sẽ giúp để ổn định nhịp tim đập bất thường.
Máy tạo nhịp là một dụng cụ cấy ghép  nhỏ được  thiết kế để giúp cho nhịp tim đập và với một nhịp điệu bình thường.


Viện quốc gia Hoa kỳ  về tim, phổi, và máu nói rằng những tình trạng sau đây có thể là dấu hiệu cần một máy tạo nhịp :
  • Nhịp tim của bạn không có đập bình thường do tuổi tác, hoặc là do bệnh tim.
  • Bạn có một liệu trình gọi là rung nhĩ đểi điều trị rối loạn nhịp- thuật ngữ y học nói về nhịp tim bất thường.
  • Bạn phải dùng thuốc mà nó làm chậm nhịp tim của bạn, như là thuốc chặn beta.
  • Bạn có triệu chứng của chậm nhịp tim, kể cả bị ngất xỉu.
  • Bạn có vấn đề về cơ mà nó có thể làm chậm khởi phát xung điện qua tim ( xung điện này kích thích tim đập-ND)

Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Da vàng bủng, bụng chướng lớn, giọng nói đã thều thào nhưng không có “tí men” vào người, chân tay ông H lại run lên bần bật. Dù nằm trên giường bệnh, nhưng nhiều bệnh nhân vẫn cố sống cố chết “ôm chai rượu” khiến bác sĩ cũng phải “bó tay”.

Chuyện thật tưởng như đùa ấy được BS Lý Văn Chương, Trưởng khoa nhiễm C, bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới chia sẻ với Dân trí. Theo BS Chương, Việt Nam không thuộc vùng dịch tễ nhưng có đến hơn 15% dân số mắc bệnh viêm gan B và C. Thực trạng trên là do những hạn chế về y tế và người dân không chủ động tầm soát bệnh của bản thân.

Nhưng một trong những nguyên nhân khiến bệnh gan của người dân, đặc biệt là người nghèo trở nên trầm kha hơn có xuất phát từ việc sử dụng rượu bia quá chén hoặc uống phải “rượu độc”. Vì mục đích lợi nhuận loại rượu “không khói” pha chế bằng cồn công nghiệp đang khá phổ biến trên thị trường với mức giá chỉ vài nghìn đồng cả lít. Đối tượng sử dụng loại rượu này là những người có thu nhập thấp. “Việc dung nạp rượu thường xuyên khiến gan luôn trong tình trạng quá tải do phải hoạt động liên tục để loại bỏ chất độc. Mặt khác, nồng độ cồn quá cao sẽ dẫn tới men gan bị tiêu hủy nhanh. Với người mắc bệnh gan nhưng vẫn sử dụng rượu thì bệnh sẽ diễn tiến nhanh, dẫn tới xơ gan, ung thư.
Biết nguy hiểm là thế nhưng bác sĩ chỉ có thể đưa ra khuyến cáo chứ không có quyền cấm bệnh nhân nên người bệnh uống rượu hoặc công khai hoặc lén lút là chuyện thường ngày vẫn diễn ra. Nhập viện điều trị trong tình trạng vàng mắt vàng da, bụng chướng lớn bác sĩ chẩn đoán bệnh đã chuyển sang giai đoạn xơ gan nhưng ông C.Q.H. (41 tuổi, ngụ tại huyện Bình Chánh, TPHCM) vẫn không quên được rượu.
Qua khai thác bệnh sử ghi nhận, ông H. làm nghề phụ hồ nên mỗi ngày đi làm đều mang theo vài xị rượu để “tăng lực”. Tuy nhiên, thu nhập thấp lại bấp bênh nên ông chỉ có thể chọn cho mình loại rượu “nặng đô” nhưng giá rẻ. Sau một thời gian dài lấy rượu thay nước, hơn 1 tháng trước ông H. bất ngờ bị sốt cao, vàng mắt, vàng da nên đến bệnh viện kiểm tra bác sĩ kết luận bệnh nhân bị viêm gan C đã chuyển sang giai đoạn xơ gan. Nằm trên giường bệnh nhưng ông H. vẫn yêu cầu vợ mua rượu đều đều, bất chấp khuyến cáo của bác sĩ. Vợ ông phần vì bị chồng dọa bỏ điều trị phần vì sợ bị thượng cẳng chân hạ cẳng tay nên vẫn phải len lút tiếp tế rượu cho chồng
Không chỉ nam giới bị đầu độc bởi rượu không khói mà ngay cả nữ giới cũng trở thành nạn nhân. Bà V.T.K. (62 tuổi, ngụ tại Long An) một thời từng là “đàn chị” trong các cuộc nhậu của các bà các mẹ, đám mày râu ngồi với bà nhiều khi còn phải kiêng nể. Nhưng bất ngờ bà đổ bệnh, bác sĩ kết luận bà bị viêm gan B đã tiến sang giai đoạn xơ gan, bất đắc dĩ phải nằm viện điều trị và buộc phải “cai rượu” khiến bà cảm thấy bứt rứt và thòm thèm mỗi khi nghĩ đến những cuộc nhậu lên bờ xuống ruộng.
BS Chương cho biết: “Bệnh nhân viêm gan tuyệt đối không sử dụng rượu bia vì nồng độ cồn cao khiến gan bị hủy hoại nhanh hơn gây nhiều khó khăn cho việc chữa trị. Trong khi ddos, bệnh viêm gan thường có diễn tiến âm thầm nên người bệnh rất khó nhận biết ra các dấu hiệu của bệnh. Với bệnh viêm gan B. thông thường 90% có thể tự khỏi, 10% còn lại nếu không được phát hiện chữa trị kịp thời sẽ chuyển sang giai đoạn viêm gan mãn tính. Ngược lại ở bệnh viêm gan C chỉ có 10% tự khỏi được còn 90% còn lại sẽ chuyển sang giai đoạn mãn tính”.

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013

Vừa nghe thấy cụm từ viêm gan do rượu sẽ khiến cho nhiều người liên tưởng tới rượu. Nguy hiểm của bệnh viêm gan do rượu là vô cùng lớn. Mỗi loại rượu có nồng độ cồn không giống nhau. Cồn sau khi vào cơ thể chỉ có 10% được dạ dày đào thải, 90% được trao đổi ở gan.


 Thành phần chủ yếu của cồn là ethanol, ethanol sau khi vào tế bào gan sẽ oxy hóa thành acetaldehyde. Ethanol và acetaldehyde đều có tác dụng xấu trực tiếp kích thích làm tổn hại tới gan, có thể khiến cho tế bào gan hoại tử, uống nhiều rượu trong thời gian dài có khả năng dẫn tới bệnh viêm gan do rượu.
Xã giao trong cuộc sống thường ngày, tụ tập đều phải uống rượu, dẫn tới số người mắc bệnh viêm gan do rượu ngày càng nhiều. Biểu hiện của bệnh viêm gan do rượu rất đa dạng, biểu hiện giai đoạn đầu thường là gan nhiễm mỡ, sau đó phát triển thành viêm gan do rượu, gan xơ hóa do rượu và xơ gan do rượu. Khi nghiện rượu nghiêm trọng, có thể khiến cho tế bào gan bị hoại tử, suy kiệt chức năng gan. Nguy hiểm chủ yếu của bệnh viêm gan do rượu có liên quan tới lượng rượu uống, năm uống rượu, giới tính, di truyền, dinh dưỡng, nhiễm virut viêm gan B, viêm gan C. Cồn có hại đối với sức khỏe và tim mạch.
Tính nghiêm trọng của bệnh viêm gan do rượu? Mắc bệnh viêm gan do rượu nên làm thế nào?
Điều trị bệnh viêm gan do rượu trước tiên phải cai rượu, bao gồm những đồ uống có cồn, như: bia, rượu bia, rượu thuốc. Từ bỏ lối sống có hại, chế độ ăn uống thích hợp, thường xuyên tập thể dục. Đồng thời phải kịp thời tới bệnh viện để tiến hành điều trị, tránh phát triển thành xơ gan do rượu.

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Khi dùng quá nhiều chất cồn (từ rượu, bia) sẽ sinh ra các bệnh lý như bệnh lý liên quan đến gan, rối loạn tâm thần – hành vi, thoái hóa hệ thần kinh, nhiễm độc, bệnh dạ dày và bệnh tim mạch.

Khi chất cồn khi vào cơ thể, nếu vượt quá mức cho phép dù chỉ rất ít cũng sẽ gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe thể chất và tâm thần. Nó làm giãn các mạch máu, đặc biệt là các mạch máu ngoại biên vì thế cho nên sau khi dùng đồ uống có cồn chúng ta lại có cảm giác ấm lên.

Ảnh minh họa. nguồn: internet
Cồn là chất có tác động rất lớn đến bộ não, ngay cả khi chỉ cần uống một lượng với nồng độ khoảng 0,25%o trong máu, tương đương với 0,3 lít bia hoặc 100ml rượu vang. Cồn gây tác động rất lớn đến hệ thống thần kinh mà đặc biệt là lên não, chúng  làm cho góc nhìn bị thu hẹp lại và thời gian phản ứng chậm đi. Do vậy, người uống rượu, bia bị hạn chế rất lớn trong việc điều khiển các loại phương tiện giao thông và rất dễ dẫn đến tai nạn giao thông. Nghiên cứu về tác hại của rượu của một số tác giả cho kết quả là nếu uống 50g cồn hằng ngày sẽ để lại tác hại vĩnh viễn, với khoảng 100.000 tế bào não sẽ bị giết chết khi uống một ly bia. Trong một cơn say rượu, con số tế bào não chết đi có thể lên đến 10.000.000.
Bên cạnh đó, đồ uống có cồn cũng ảnh hưởng đến khả năng tình dục và có con. Mặt khác, cồn là chất có tác dụng độc hại đến tinh hoàn và tinh trùng cho nên nếu nam giới uống rượu trước khi sinh hoạt tình dục chẳng những làm tăng khả năng sảy thai ở người vợ mà còn có thể ảnh hưởng đến việc phát triển của đứa con sinh ra. Nếu người mẹ uống rượu trong thời gian mang thai dễ sinh ra các đứa trẻ có khuyết tật về trí tuệ.
Những bệnh do uống rượu
Viêm gan: viêm gan do rượu là tình trạng viêm và hoại tử tế bào gan kéo dài trong khoảng thời gian 1 – 2 tuần với các triệu chứng như chán ăn, buồn nôn, ói, đau bụng, sốt, vàng da, thỉnh thoảng có rối loạn tâm thần. Bệnh có thể diễn tiến đến xơ gan do rượu qua nhiều năm. Xơ gan là tình trạng tế bào gan bị tổn thương thường xuyên mà biểu hiện ban đầu bằng tình trạng gan nhiễm mỡ, nếu ngừng uống rượu ở giai đoạn này bệnh có thể tự khỏi. Trong một số trường hợp sau khi uống rượu, bia vào có cảm giác nhức đầu và dùng thuốc giảm đau với thuốc thông thường là Panadol, đây là điều hết sức nguy hiểm vì rượu có thể gây tổn thương gan dù uống ít nếu dùng chung với thuốc có chứa acetaminophen như Panadol…
Sảng run: bệnh sảng run chỉ xảy ra ở người nghiện rượu mà nguyên nhân là do nhiễm độc hệ thần kinh và rối loạn chuyển hóa do rượu. Bệnh xuất hiện sau khi ngừng uống rượu từ khoảng 12 – 48 giờ với 2 nhóm triệu chứng nổi bật:
- Rối loạn ý thức kiểu mê sảng làm cho người bệnh mất năng lực định hướng không gian và thời gian, nhận dạng người thân kém, mất ngủ hoàn toàn hay ngủ chập chờn vật vã với nhiều ác mộng; luôn ở trong tình trạng lo âu, sợ hãi, căng thẳng, nhìn nhưng không thấy; có các ảo giác, ảo thanh… nên hay có các phản ứng tự vệ nguy hiểm cho người xung quanh.
- Các rối loạn về thần kinh như toàn thân run lập cập, nói chuyện lắp bắp không rõ ràng, đi loạng choạng nên rất dễ vấp ngã gây gãy xương, vỡ tạng… Trường hợp nặng hơn, có thể còn có cả cơn co giật như động kinh.
Người bị sảng run còn có các rối loạn thần kinh thực vật trầm trọng như ra mồ hôi đầm đìa như tắm ngay cả khi nghỉ ngơi, khát nước, da tái, kém đàn hồi, tiểu ít, buồn nôn, nôn, đau bụng, đi lỏng, sốt, tim đập nhanh, huyết áp không ổn định… Sảng run có thể tự thuyên giảm sau vài ngày, tuy nhiên có rất ít trường hợp. Phần lớn trường hợp nếu không điều trị sẽ tiến triển xấu, các rối loạn ngày càng trầm trọng, khiến người bệnh có nguy cơ tử vong.
Bệnh gút: do lượng cồn tồn lưu trong cơ thể quá nhiều nên gây ra bệnh gút (gout). Khi uống nhiều bia, rượu vào cơ thể, lượng cồn dư thừa chúng tích tụ lại và sau nhiều lần như thế sẽ gây ra những rối loạn trong quá trình trao đổi chất và chuyển hóa năng lượng. Sự tích tụ chất cồn trong các ổ khớp sẽ dẫn đến bệnh gút chúng phá hủy mạn tính các ổ khớp, gây nên các cơn viêm khớp cấp với các biểu hiện sưng, nóng, đỏ và đau nhức. Mỗi lần uống liên tục nửa lít rượu mạnh sẽ làm gia tăng lượng acid uric trong máu.
Bệnh tim mạch: tim cũng có cấu tạo là một loại cơ, mà các loại đồ uống có nồng độ cồn cao làm suy yếu các cơ nên đương nhiên sẽ làm suy yếu cơ tim. Khi cơ tim bị suy yếu thì nó sẽ không thể bơm máu một cách hiệu quả như bình thường và khi đó sẽ xảy ra hiện tượng ứ trệ tuần hoàn ở phổi. Khi nồng độ cồn càng cao, sự tác động lên tim càng lớn, chúng làm hẹp các mạch máu và tăng áp lực trong máu, buộc tim phải hoạt động mạnh hơn. Ngoài ra, chúng còn gây ra chứng rối loạn nhịp tim.
Bệnh phổi: khoảng 5% lượng cồn trong máu sẽ nhanh chóng khuếch tán vào trong các phế nang. Tại đây dung dịch cồn sẽ được làm ấm và chuyển chúng thành dạng hơi mà khi chúng ta thở ra, các phân tử hơi này sẽ là tiêu chí để đo lượng cồn trong hơi thở. Nếu uống rượu trong một thời gian dài, chất cồn sẽ làm mất đi chất chống oxy hóa quan trọng trong phổi, từ đó phổi bị tổn thương vĩnh viễn vì thế người nghiện rượu rất dễ mắc các bệnh nguy hiểm như viêm phổi cũng như các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp khác.
Bệnh viêm loét dạ dày – tá tràng: sau khi được đưa vào cơ thể, dạ dày là trạm dừng chân đầu tiên của cồn. Chỉ trong vòng 5 phút, 20% lượng bia, rượu uống vào sẽ lập tức khuếch tán vào máu. Phần bia, rượu còn tồn lưu tại dạ dày sẽ làm suy yếu các biểu mô bảo vệ dạ dày, do đó làm tăng nguy cơ mắc các bệnh viêm nhiễm với các triệu chứng như ợ nóng, viêm loét và chảy máu.
Ngoài ra, nghiện rượu còn gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống và tình hình an ninh trật tự xã hội như bạo hành gia đình và gây rối trật tự  xã hội.

Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

Hầu hết ai cũng biết gan nhiễm mỡ là bệnh nguy hiểm nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời nhưng sự nguy hiểm của nó thế nào thì không phải ai cũng biết rõ. Dưới đây các bác sĩ của phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã sẽ giải thích rõ điều này. 


Nguyên nhân gây bệnh gan nhiễm mỡ
Theo các bác sĩ của phòng khám chuyên gan 12 Kim Mã, các bệnh nhân thường có tiền sử như nghiện rượu, tiểu đường, béo phì, thiếu máu, ở người bị bệnh  nhiễm khuẩn mạn tính như viêm suy gan mạn tính, lao… Ngoài ra, gan nhiễm mỡ còn do nhiễm các chất độc đối với gan như phosphore, carbon tetraclorua, gan nhiễm mỡ cấp tính trên sản phụ, gan nhiễm mỡ vì thiếu dinh dưỡng. Không nhất thiết phải là những người béo phì mới bị gan nhiễm mỡ, gan nhiễm mỡ còn hay gặp ở những người ăn chay trường, ăn uống đạm bạc, suy dinh dưỡng lâu ngày, thiếu các vitamin và protein để tạo thành các chất chuyển hoá cần thiết để đưa chất mỡ ra khỏi gan.
Sự nguy hiểm của bệnh gan nhiễm mỡ
Tình trạng thâm nhiễm mỡ ở gan xảy ra từ từ do đó bệnh có thể giữ nguyên trong nhiều năm hoặc đột nhiên tiến triển thành xơ gan với hậu quả khó tránh khỏi là tử vong. Gan nhiễm mỡ đa số là mạn tính, biểu hiện lâm sàng và mức độ gan nhiễm mỡ có quan hệ mật thiết với nhau.
Gan nhiễm mỡ mức độ nhẹ (hàm lượng mỡ chiếm từ 5% đến 10% trọng lượng gan) có thể không có triệu chứng lâm sàng mà người bệnh tự cảm thấy được. Còn mức độ vừa hay nặng (hàm lượng mỡ từ 10% đến 30%) thì có những biểu hiện như chán ăn, buồn nôn, nôn, trướng bụng. Những người ở thể nặng còn bị chứng vàng da, cổ trướng. Và khi được tiến hành các xét nghiệm máu thì các chỉ số chức năng gan như aminotransferase và alkaline phosphatase huyết thanh tăng nhẹ.
suy nhuoc co the
Chán ăn, mệt mỏi là triệu chứng của bệnh gan nhiễm mỡ
Những bệnh nhân gan nhiễm mỡ do những nguyên nhân khác nhau thì cũng có kèm theo những triệu chứng đặc trưng của những nguyên nhân đó. Ở các bệnh nhân tiểu đường và béo phì, các triệu chứng thường không rõ rệt, trừ việc gan to và hơi tức vùng gan, xét nghiệm cho thấy chức năng gan bình thường hoặc tăng nhẹ men gan. Gan nhiễm mỡ cấp do ăn uống quá tải hay gây đau tức vùng gan, lượng mỡ máu cao. Những người nghiện rượu có thể bị gan nhiễm mỡ cấp sau một bữa rượu qua chén thường đau vùng thượng vị phải cùng với các dấu hiệu đau do tắc mật. Nếu bị gan nhiễm mỡ cấp (thường gặp khi thai nghén) kèm theo vàng da và suy gan, sẽ có biểu hiện rối loạn tâm thầm, xét nghiệm thấy men gan và bilirubin tăng.
Sự thâm nhiễm mỡ ở gan kéo dài làm giảm oxy hoá acid béo ở gan, tế bào gan bị huỷ hoại, chức năng gan suy giảm. Người bị gan nhiễm mỡ nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nguy cơ như xơ gan, thậm chí là ung thư gan… Vì vậy, mỗi người chúng ta nên có thói quen khám sức khoẻ định kỳ và nếu thấy mình có những triệu chứng như đã nói ở trên thì cần làm xét nghiệm máu để có chẩn đoán chính xác, kịp thời phòng tránh và điều trị gan nhiễm mỡ.
Điều trị bệnh gan nhiễm mỡ
Việc điều trị gan nhiễm mỡ chủ yếu là điều trị các nguyên nhân cơ bản gây bệnh.
- Nếu bị béo phì: cần áp dụng chế độ ăn uống hợp lý và tập thể dục để giảm cân.
- Phải ngừng uống rượu, bia và các chất có cồn.
- Ngưng ngay các thuốc có khả năng gây độc cho gan và thay thế bằng những thuốc an toàn theo hướng dẫn của bác sĩ.
- Bị bệnh viêm gan siêu vi: cần kiểm soát tình trạng viêm và những diễn tiến bất lợi dẫn đến xơ gan.
Ngoài việc thực hiện một chế độ ăn uống hợp lý, tập thể dục thường xuyên thì những người bị gan nhiễm mỡ cần phải đi kiểm tra gan định kỳ để có thể nắm rõ tình trạng mỡ trong gan của mình thế nào, từ đó có các cách điều trị hợp lý để tránh nguy cơ biến chứng. Đó là những chia sẻ của các bác sĩ Phòng khám đa khoa 12 Kim Mã.

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Có một câu nói dành cho bệnh trĩ là “thập nhân cửu trĩ” bao hàm ý cứ mười người thì chín người bệnh trĩ. Bệnh trĩ khá phổ biến , thường gặp dưới 2 dạng là trĩ nội và trĩ ngoại. Bệnh trĩ thường biểu hiện ra ngoài thông qua 2 dấu hiệu cơ bản là chảy máu và sa búi trĩ

Chảy máu:

Chảy máu là triệu chứng có sớm nhất và thường gặp nhất. Lúc đầu chảy máu rất kín đáo, tình cờ bệnh nhân phát hiện khi nhìn vào giấy chùi vệ sinh sau khi đi cầu hoặc nhìn vào phân thấy vài tia máu nhỏ dính vào thỏi phân rắn. Về sau mổi khi đi cầu phải rặn nhiều do táo bón thì máu chảy thành giọt hay thành tia. Muộn hơn nữa cứ mỗi lần đi cầu, mỗi lần đi lại nhiều, mỗi lần ngồi xổm máu lại chảy. Đôi khi máu từ búi trĩ chảy ra đọng lại trong lòng trực tràng rồi sau đó mới đi cầu ra nhiều máu cục.


Sa búi trĩ:

Thường xảy ra trễ hơn sau một thời gian đi cầu có chảy máu, lúc đầu sau mỗi khi đại tiện thấy có khối nhỏ lồi ra ở lỗ hậu môn, sau đó khối đó tự tụt vào được. Càng về sau khối lồi ra đó to lên dần và không tự tụt vào sau khi đi cầu nữa mà phải dùng tay nhét vào. Cuối cùng khối sa đó thường xuyên nằm ngoài hậu môn.




Triệu chứng khác:

Ngoài 2 triệu chứng chính trên, bệnh nhân có thể có kèm theo các biểu hiện khác như đau khi đi cầu, ngứa hậu môn. Thông thường trĩ không gây đau, triệu chứng đau xảy ra khi có biến chứng như tắc mạch, sa trĩ nghẹt hay do các bệnh khác ở vùng hậu môn như nứt hậu môn, áp xe cạnh hậu môn… Triệu chứng ngứa xảy ra do búi trĩ sa ra ngoài và tiết dịch gây viêm da quanh hậu môn làm cho bệnh nhân cảm thấy hậu môn lúc nào cũng có cảm giác ướt và ngứa.


Biến chứng nguy hiểm của bệnh trĩ

Người bệnh mắc trĩ thường chủ quan, cho rằng bệnh chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày mà không lường được những biến chứng nguy hiểm của bệnh trĩ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe.


Nếu không được chữa trị kịp thời, bệnh trĩ để lại những biến chứng hết sức nguy hiểm như là:


Đau đớn và chảy máu: Mắc trĩ ở cấp độ nặng nhất, búi trĩ sẽ thòi ra ngoài, gây đau đớn cho người bệnh do bị cọ sát trong khi vận động.


Trĩ quá nặng sẽ khiến thành mạch máu giãn mỏng nên rất dễ thủng, dễ rách và chảy máu gây mất máu. Nếu chảy máu nhiều và tình trạng này kéo dài sẽ làm người bệnh bị thiếu máu. Khi đó, biến chứng này của bệnh trĩ sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.


Tắc nghẽn: Búi trĩ to, máu dễ đông lại thành cục, gây tắc nghẽn và đau dữ dội cho người bệnh.


Bội nhiễm: Đây là biến chứng rất nguy hiểm có thể dẫn tới mắc các bệnh tật khác do bội nhiễm.


Khi trĩ thòi ra ngoài lâu gây chảy máu, nứt kẽ hậu môn, thậm chí rặn quá nhiều còn ảnh hưởng tới tầng sinh môn. Nứt, rách hậu môn và tầng sinh môn rất dễ bị bội nhiễm vi khuẩn từ phân và nước tiểu.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013


Táo bón ở nam giới là một bệnh thường gặp, do người đàn ông trong xã hội hiện đại phải chịu quá nhiều áp lực, dễ dẫn đến tình trạng stress hoặc những căng thẳng từ nhiều phương diện trong cuộc sống, thường xuyên hút thuốc, uống rượu nên ảnh hưởng trực tiếp tới thói quen sinh hoạt, đảo lộn sự vận hành của hệ tiêu hóa, từ đó dễ làm cho người bệnh dẫn đến các triệu chứng không mong muốn về táo bón cũng như những bệnh lý về đường ruột khác.
Những triệu chứng của người đàn ông khi bị táo bón mãn tinh sẽ thường thấy là: đầu lưỡi cảm thấy khá đắng khi nuốt nước bọt, chán ăn, đau âm ỉ vùng bụng dưới, chóng mặt, đau đầu, hay thở gấp v.vv....

Ngoài ra việc đại tiện khô, khó khăn trong mỗi lần đi đại tiện thường xuất hiện đối với những người bệnh bị mắc chứng táo bón, điều cần chú ý là khi bạn không thể tiến hành việc đi đại tiện như ý muốn đồng nghĩa với việc độc tố trong cơ thể đang tích lũy dần, kết hợp với tinh thần suy nhược sẽ làm bệnh tình của bạn ngày càng nặng hơn.

Táo bón là nguyên nhân dẫn đến các bệnh lý về trực tràng và hệ tiêu hóa, làm cho niêm mạc trực tràng bị tổn thương từ đó lâu dần dẫn đến việc hệ tiêu hóa bị xáo trộn, đặc biệt là với những người trong độ tuổi trung niên, lão niên, những tổn thương này sẽ làm người bệnh gặp rất nhiều phiền toái trong cuộc sống.



Táo bón có thể là biểu hiện của bệnh thiểu năng tuyến giáp hoặc phình to đại tràng bẩm sinh. Cả 2 trường hợp này thường xuất hiện táo bón rất sớm từ thời gian sơ sinh, không liên quan gì tới thay đổi chế độ ăn uống. Những trường hợp này cần đi khám bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Người đàn ông bị viêm, nứt kẽ hậu môn, mà nguyên nhân là vệ sinh không tốt hoặc do phân quá rắn gây nứt và dẫn tới viêm nhiễm. Cảm giác đau làm cho họ sợ đi đại tiện, dẫn tới táo bón càng nặng thêm. Khi đó, cần bảo đảm vệ sinh hậu môn, nếu có biểu hiện viêm nứt, có thể rửa bằng nước muối loãng, hoặc bôi mỡ kháng sinh. Nhiều trường hợp, bệnh sẽ khỏi thông qua những biện pháp vệ sinh thông thường; nếu bệnh không chuyển biến, cần đi khám bác sĩ.

Việc táo bón kinh niên sẽ gây ra các tác hại khác như là sắc tố da trở nên sạm hơn, điều này thật không hay, các độc tố có trong phân sẽ bị hấp thu qua đường máu làm tăng tốc độ lão hóa trên gương mặt bạn.

Lời khuyên từ các chuyên gia phòng khám đa khoa Thanh Trì : chúng tôi hiện nay tự hào là đơn vị đi đầu trong lĩnh vực hậu môn, trực tàng và các loại bệnh trĩ, hiên nay chứng tôi đang cho di vào ứng dụng các loại máy tân tiến như: PPH; HCPT, C00K . Với những loại máy móc này việc phẫu thuật sẽ trở nên an toàn và tiết kiệm thời gian hơn so với phương pháp truyền thống.

Phòng khám đa khoa Thanh Trì chúng tôi là cơ sở y tế chuyên nghiệp, quy tụ đội ngũ bác sỹ và y tá có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có trách nhiệm và luôn tận tình với bệnh nhân. Chúng tôi hy vọng với trang thiết bị hiện đại cùng với những nỗ lực không ngừng trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe cộng đồng, Phòng khám đa khoa Thanh Trì sẽ là sự lựa chọn đáng tin cậy của bạn.

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

TTO – Làm thế nào để phát hiện một người bị bệnh bướu cổ? Bệnh bướu cổ có thể trị được không? Nếu có thì bệnh viện nào ở TP.HCM có thể chữa trị được? Chi phí cho một lần khám và điều trị là bao nhiêu? Xin cảm ơn rất nhiều!
- Bướu cổ là sự tăng thể tích của tuyến giáp trạng. Có thể phát hiện bướu cổ to bằng mắt thường (khi bảo người bệnh nuốt, tuyến giáp sẽ chạy ngược lên nhìn rõ hơn) và bằng cách sờ nắn. Siêu âm tuyến giáp cần làm để thấy rõ thể tích của tuyến giáp, bản chất của tuyến là tản phát hay là bướu hòn, tuyến đặc hay có nang.

Nếu tuyến giáp to nhưng không kèm theo các rối loạn chức năng như cường giáp (tay run, mạch nhanh…) hay thiểu năng giáp (dạ dày lên xanh xạm, tiếng khàn, lưỡi to dày, cử động chậm chạp…) hay dấu hiệu viêm nhiễm thì đó là bướu cổ đơn thuần.

Bướu cổ đơn thuần, tản phát hay gặp nhất, quyết định điều trị phải dựa vào tuổi, tiền sử gia đình và chủ yếu căn cứ vào thể tích của bướu cổ (kích thước to hay nhỏ).

- Nếu bướu cổ nhỏ, chỉ hơi sờ thấy và ở phụ nữ trẻ: chỉ cần theo dõi, làm lại siêu âm sau một năm, nhất là tránh dùng thuốc có Iod và kháng sinh giáp trạng tổng hợp. Kiêng các thức ăn làm tuyến to lên như: bắp cải, súp lơ, củ cải, củ cải nghệ.

- Nếu bướu cổ có thể tích trung bình khi nhìn khá rõ và có thể sờ thấy. Bướu cổ có nguy cơ to lên và trở thành bướu hòn nhất là khi bệnh có tính chất gia đình. Cần kìm hãm sự phát triển của tuyến bằng tinh chất (hoóc môn) giáp trạng (Lewothyrax, Thycoxime bắt đầu bằng 50mg tăng dần đến 75 và 100mg trong 10 đến 15 ngày). Nếu có dấu hiệu quá liều, phải giảm ngay xuống liều cũ. Cần lưu ý là phải điều trị duy trì suốt đời.


Trường hợp tốt nhất, bướu nhỏ dần và biến mất. Các trường hợp khác bướu ổn định (không to thêm). Một số trường hợp dù điều trị, bướu cổ vẫn to lên (có yếu tố di truyền và địa lý).

- Bướu quá to, tiến triển nhiều năm, trở nên mất mỹ quan, nhất là trở thành bướu nhiều nhân (hòn). Phẫu thuật lúc này là cần thiết và luôn phải tiếp theo điều trị bằng tinh chất giáp trạng suốt đời.

Tốt nhất cần đi khám bác sĩ chuyên khoa nội tiết để được theo dõi và chữa chạy chu đáo. Nhất là cần xác định rõ bướu cổ có kèm theo các triệu chứng cường giáp hay thiểu năng giáp để điều trị kịp thời.
ANTĐ – Theo một nghiên cứu mới đây thì bổ sung liều cao vitamin E từ chế độ ăn hoặc các chế phẩm bổ sung vitamin có thể giúp làm giảm nguy cơ ung thư gan.

Để xác định mối liên quan giữa việc hấp thu vitamin E và nguy cơ ung thư gan, các nhà nghiên cứu ở Đại học Giao thông Thượng Hải, Trung Quốc đã phân tích dữ liệu từ tổng số 132.837 người Trung Quốc tham gia vào Nghiên cứu Sức khỏe Phụ nữ Thượng Hải (SWHS) trong khoảng các năm 1997-2000 hoặc Nghiên cứu Sức khỏe Nam giới Thượng Hải (SMHS) trong khoảng các năm 2002-2006.

Sử dụng bảng hỏi về mức độ thường xuyên ăn thực phẩm, các nhà nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn để thu thập dữ liệu về thói quen trong chế độ ăn của các đối tượng. Các đối tượng nghiên cứu được hỏi về mức độ thường xuyên ăn một số loại thực phẩm và xem liệu họ có sử dụng các chế phẩm bổ sung vitamin E không. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã so sánh nguy cơ ung thư gan giữa các đối tượng bổ sung liều cao vitamin E với những người bổ sung ít vitamin E.



Trong số các đối tượng nghiên cứu, có 267 bệnh nhân ung thư gan (118 phụ nữ và 149 nam giới) có chẩn đoán trong vòng 2 năm sau khi tham gia vào nghiên cứu. Sau khi phân tích, các nhà khoa học thấy rằng việc bổ sung vitamin E từ cả chế độ ăn và từ các chế phẩm bổ sung vitamin E đều giúp giảm nguy cơ ung thư gan.

Vitamin E được xem là một chất chống ôxy hóa, tan trong chất béo. Kết quả của nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy vitamin E có thể giúp phòng ngừa các tổn thương ADN.

Ung thư gan là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 gây tử vong do ung thư trên thế giới. Đây cũng là căn bệnh ung thư phổ biến đứng hàng thứ 5 ở nam giới và thứ 7 ở nữ giới. Gần 85% số ca ung thư gan là ở các nước đang phát triển, trong đó riêng Trung Quốc đã chiếm 54%.

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Tập thể dục thường xuyên không chỉ có tác dụng tăng cường thể chất và tinh thần mà còn ngăn ngừa được một số bệnh ung thư.
Ung thư nội mạc tử cung

Phụ nữ tập thể dục thường xuyên (khoảng 150 phút/tuần trở lên) có thể giảm  34% nguy cơ mắc bệnh ung thư nội mạc tử cung (một loại ung thư bắt đầu ở lớp niêm mạc của tử cung) so với những người ít hoạt động thể chất.

Các nhà nghiên cứu cũng cho biết phụ nữ có chỉ số khối cơ thể (BMI) dưới 25 có nguy cơ mắc bệnh thấp hơn 73% so với phụ nữ không hoạt động thường xuyên, có chỉ số BMI trên 25.

Ung thư đại trực tràng

Theo một nghiên cứu được công bố trực tuyến trên Tạp chí Y khoa của Anh, những người có lối sống lành mạnh, bao gồm cả tập thể dục hơn 30 phút mỗi ngày sẽ có thể giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng.

Một lời khuyên cho những người không tập thể  dục là nên bắt đầu tập với một cường độ thấp, và dần dần tăng lên đến một mức độ vừa phải thì bạn sẽ thấy dễ chịu hơn.

Ung thư tuyến tiền liệt

Những người đàn ông tập thể dục thường xuyên cho thể sẽ ít có nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền liệt hoặc tử vong vì căn bệnh này so với những người lười vận động, theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí International Journal of Cancer của Mỹ.


Ung thư vú

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nghiên cứu ung thư vú (Mỹ), những phụ nữ có tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư vú sẽ có thể giảm 2/4 nguy cơ bị bệnh bằng cách mỗi ngày dành ra ít nhất 20 phút để tập thể dục. Duy trì thói quen này ít nhất 5 lần/tuần, cùng với chế độ ăn uống và sinh hoạt lành mạnh.

Chị em ở độ tuổi vị thành niên nên tập thể dục đều đặn để trì hoãn sự khởi đầu của bệnh ung thư vú.

Ung thư phổi

Tập thể dục có thể làm giảm nguy cơ ung thư phổi, nhất là đối với những người hút thuốc. Phụ nữ chăm tập thể dục sẽ ít có khả năng phát triển ung thư phổi hơn so những người không tập hoặc tập ít, theo nghiên cứu năm 2006 trên tạp chí Ung thư Dịch tễ học Biomarkers & Prevention.

Ung thư buồng trứng

Một số bằng chứng cho thấy có mối liên hệ giữa tập thể dục và giảm nguy cơ ung thư buồng trứng biểu mô (ung thư được tìm thấy trong các tế bào trên bề mặt của buồng trứng).

Những phụ nữ tham gia vào các hoạt động vận động với cường độ cao sẽ ít gặp nguy cơ ung thư buồng trứng xâm lấn so với phụ nữ không có hoạt động thể chất thường xuyên.

Ung thư dạ dày

Những người thường xuyên hoạt động thể chất sẽ giảm 50% nguy cơ ung thư dạ dày, theo một nghiên cứu trong tạp chí Ung thư Dịch tễ học Biomarkers and Prevention.

Những người chăm chỉ thể dục trong suốt cuộc đời của họ cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày, theo một nghiên cứu trên Tạp chí Ung thư châu Âu.

Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -