Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh tim bẩm sinh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh tim bẩm sinh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Bệnh tim bẩm sinh là gì?    Là dị tật ở tim (có thể tại vách tim hay van tim) và các mạch máu lớn, được phát hiện ngay sau khi sinh ra. Theo ước tính cứ 100 trẻ sinh ra sẽ có một trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh. Dị tật ở tim của trẻ đã xảy ra trong thời kỳ bào thai, trước khi trẻ được sinh ra. Tim bẩm sinh là một trong những dị tật bẩm sinh thường hay xảy ra nhất ở trẻ em.



   Được biết tim của trẻ bắt đầu hình thành, phát triển và hoàn chỉnh vào khoảng tuần thứ tám của bào thai. Dị tật tim bẩm sinh thường xảy ra trong tám tuần lễ đầu tiên của quá trình phát triển bào thai quan trọng này. 
Nguyên nhân nào gây dị tật tim bẩm sinh?
   Đại đa số các tật tim bẩm sinh thường không tìm thấy nguyên nhân. Các bà mẹ có thể thắc mắc và tự hỏi không biết mình đã làm gì (uống thuốc, tiếp xúc hóa chất gì), hay mắc bệnh gì trong thời gian mang thai mà gây ra tật tim bẩm sinh cho con mình. Trong hầu hết các trường hợp thường không tìm thấy được nguyên nhân nào có mối liên hệ rõ ràng với các tật tim bẩm sinh. 
   Có một số tật tim bẩm sinh thường xảy ra hơn, mang tính gia đình, vì vậy có thể có mối liên quan về di truyền đối với một số tật tim bẩm sinh. Các nhà khoa học nhận thấy có một số tật tim bẩm sinh có thể di truyền và đi kèm với các hội chứng đa dị tật như trong hội chứng Ehrles-Danlos, Noonan, Leopard, Ellis-Van-Creveld, Hunter,..   
   Cũng có một số tật tim bẩm sinh xảy ra có liên quan đến rối loạn nhiễm sắc thể như trong hội chứng Down (có 3 nhiễm sắc thể 21), hội chứng Turner (XO, không có nhiễm sắc thể giới tính Y), hội chứng Klinefelter (XXY: có 2 nhiễm sắc thể X và 1 nhiễm sắc thể Y ); hay do đột biến gen.
   Một số tật tim bẩm sinh có thể sẽ xảy ra nếu người mẹ bị nhiễm siêu vi trong khi mang thai như nhiễm Rubella, Cytomegalo, Herpes, đặc biệt là trong 3 tháng đầu của thai kỳ hay dùng một số thuốc như thuốc chống động kinh, Thalidomide, nội tiết tố sinh dục,... 
Các loại dị tật tim bẩm sinh:
   Các dị tật tim bẩm sinh ở trẻ em có thể có từ dạng đơn giản đến dạng phức tạp. 
   Các dị tật tim bẩm sinh ở trẻ em có thể được phân thành nhiều loại và cũng có nhiều cách phân loại dị tật tim bẩm sinh. Ngày nay người ta thường phân loại các dị tật tim bẩm sinh dựa theo ảnh hưởng của nó đối với các luồng máu chảy trong cơ thể của trẻ. 
   Các tật tim bẩm sinh ở trẻ em bao gồm:
1         Nhóm tim bẩm sinh không có luồng thông: trong nhóm này thường trẻ không bị tím, lượng máu lên phổi bình thường hoặc giảm, bao gồm Hẹp động mạch phổi, Hẹp động mạch chủ, Hẹp eo động mạch chủ
2         Nhóm tim bẩm sinh có luồng thông từ trái sang phải: có lỗ thông đưa máu đi từ
các buồng tim bên trái sang tim bên phải. Trong nhóm tim bẩm sinh này, lưu lượng máu đi qua phổi sẽ gia tăng (tăng tuần hoàn phổi) và thường không gây ra triệu chứng tím (trừ khi luồng thông đã bị đảo chiều do áp lực mạch máu phổi gia tăng cao hơn áp lực mạch máu của hệ thống). Bao gồm các dị tật tim bẩm sinh sau:
Ø       Còn ống động mạch (PDA: có ống thông nối từ cung ĐM chủ qua ĐM phổi).
Ø       Thông liên nhĩ (có lỗ thông giữa 2 tâm nhĩ) 
Ø       Thông liên thất (VSD: có lỗ thông giữa 2 tâm thất) là dị tật tim bẩm sinh hay gặp nhất        
Ø       Kênh nhĩ thất …
3         Nhóm tim bẩm sinh có luồng thông từ phải sang trái: có lỗ thông đưa máu đi từ
các buồng tim bên phải sang tim bên trái, thường gây ra triệu chứng tím và lưu lượng máu đi qua phổi có thể tăng (tăng tuần hoàn phổi) hay giảm (giảm tuần hoàn phổi).
§   Luồng thông từ phải sang trái với lưu lượng máu đi qua phổi tăng, bao gồm những dị
tật tim bẩm sinh như:
Ø       Chuyển vị đại động mạch (bình thường động mạch chủ xuất phát từ thất trái, động mạch phổi xuất phát từ thất phải, nhưng trong dị tật này thì ngược lại)
Ø       Bất thường tĩnh mạch phổi về tim (bình thường 4 tĩnh mạch phổi phải đổ về tâm nhĩ trái, nhưng trong dị tật này thì tất cả 4 tĩnh mạch phổi không đổ về tâm nhĩ trái hoặc chỉ có 2 tĩnh mạch phổi đổ về tâm nhĩ trái)
Ø       Tim một thất (tim chỉ có 1 buồng tâm thất)
Ø       Thiểu sản thất trái (tâm thất trái bị teo nhỏ)
Ø       Thân chung động mạch (cả 2 động mạch chủ và động mạch phổi cùng xuất phát từ một thân động mạch chung)
       §   Luồng thông từ phải sang trái với lưu lượng máu đi qua phổi giảm: bao gồm những
dị tật tim bẩm sinh có kèm theo hẹp động mạch phổi làm cho lưu lượng máu đi qua phổi giảm,bao gồm như:
Ø       Tứ chứng Fallot (bao gồm 4 dị tật là hẹp phổi, thông liên thất, động mạch chủ  
lệch phải cưỡi ngựa trên vách liên thất, phì đại thất phải) là dị tật tim bẩm sinh gây tím thường gặp nhất.
Ø       Teo van ba lá.
Ø       Teo van động mạch phổi...

Tứ chứng Fallot là bệnh tim bẩm sinh(TBS) có tím thường gặp nhất, chiếm 75% các trường hợp TBS tím ở trẻ trên 1 tuổi, gồm 4 tật trong tim( tứ chứng) là : thông liên thất, hẹp động mạch phổi, động mạch chủ cưỡi ngựa trên vách liên thất, dày thất phải. Các tật này làm giảm máu lên phổi và đưa máu thiếu oxy đi nuôi cơ thể nên trẻ có tình trang thiếu oxy lâu ngày, dễ bị mệt và bị tím da niêm. Một số trẻ bệnh nhẹ có thể không thấy triệu chứng tím.





Các biểu hiện của bệnh :

-          Tím da, niêm, môi, đầu ngón tay, ngón chân, đồng đều phần trên và dưới cơ thể.
-          Ở trẻ lớn, khi mệt, trẻ thường ngồi xổm để khỏe hơn.
-          Trẻ bị bệnh lâu ngày, các đầu ngón tay, ngón chân to bè ra như “dùi trống”.
-          Khi trẻ gắng sức hoặc gặp nhiều các yếu tố kích thích như : viêm phổi, tiêu chảy, ói mửa, mất nước….sẽ trở nên mệt, khó thở, tím nhiều hơn.
-          Nặng nề hơn là trẻ lên cơn tím thiếu oxy, biểu hiện bằng trẻ thở mạnh, thở nhanh, bứt rứt, kích động, có thể dẫn đến hôn mê. Cơn tím cần được nhanh chóng chẩn đoán và cấp cứu. Ba triệu chứng gợi ý chính là : thở mạnh, tím nhiều hơn và đường thở bình thường ( loại trừ trường hợp dị vật đường thở)
-          Ngoài ra, trẻ bị tứ chứng Fallot còn có thể gặp các biến chứng như : viêm tắc mạch máu não, áp xe não, thiếu máu kéo dài,, chậm phát triển thể chất, dễ xuất huyết răng lợi, da, tiêu hóa, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng…..

Chăm sóc trẻ bị tứ chứng Fallot :

Nếu phát hiện trẻ tím da niêm, hoặc có những dấu hiệu nghi ngờ bị TBS như : hay viêm đường hô hấp, kém ăn , chậm lớn…cần đưa trẻ đến bệnh viện chuyên khoa tim mạch để kiểm tra, xác định chẩn đoán bệnh và có hướng điều trị phù hợp.

Cha mẹ có con bị tứ chứng Fallot cần lưu ý :

-          Đưa trẻ đến bệnh viện ngay nếu trẻ khó thở, mệt, yếu, bứt rứt, tím da niêm tăng….
-          Nếu trẻ lên cơn tím, lập tức vỗ về, trấn an trẻ, nới rộng quần áo và đặt trẻ nằm theo “tư thế gối ngực” : nằm quay sang một bên với hai đầu gối co lên ngực. Tư thế này giúp tăng lượng máu lên phổi, trẻ sẻ bớt tím và đỡ mệt. Sau đó, lập tức đưa trẻ đến bệnh viện để điều trị kịp thời.
-          Cần cho trẻ uống nhiều nước, ăn đủ dinh dưỡng, ăn những thức ăn giàu chất sắt ( thịt động vật có màu đỏ như heo, bò, rau cải, ngũ cốc, hạt mè, hạt hướng dương, các loại đậu…)
-           Với trẻ nhỏ cần đút trẻ ăn chậm và chia thành nhiều bữa ăn nhỏ trong ngày, cần giữ vệ sinh và giữ ấm cho trẻ, tránh để trẻ quấy khóc, tránh để trẻ bị cảm sốt hay tiêu chảy…
-          Với trẻ lớn, trẻ cần uống kháng sinh khi làm thủ thuật hoăc điều trị răng để phòng ngừa viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, cần giữ vệ sinh răng miệng tốt để tránh bị nhiễm trùng.
-          Tránh cho trẻ vận động mạnh hay đùa giỡn quá nhiều. Tránh để trẻ gắng sức và làm những công việc nặng nhọc .
-          Tái khám đúng theo lịch hẹn của bác sĩ tim mạch để được theo dõi và điều trị kịp thời.

Phương pháp điều trị tứ chứng Fallot :

-          Điều trị nội khoa : chỉ là tạm thời trong lúc chờ lựa chọn thời điểm thích hợp để phẫu thuật.
-          Điều trị ngoại khoa : Gồm phẫu thuật tạm thời và phẫu thuật triệt để

o        Thời điểm và phương pháp phẫu thuật sẽ được bác sĩ phẫu thuật quyết định qua việc đánh giá sức khỏe, cân nặng của trẻ, mức độ nặng của bệnh, mức độ nặng các triệu chứng.
o        Hiện nay, phẫu thuật tạm thời được sử dụng là phẫu thuật Blalock cải tiến, dùng ống ghép nhân tạo nối động mạch dưới đòn ( trái hoặc phải) với động mạch phổi cùng bên để giải quyết tạm thời tình trạng thiếu oxy nặng. Sau đó, trẻ được theo dõi để chọn thời điểm phù hợp phẫu thuật sửa chữa triệt để.
o        Phẫu thuật triệt để : các tật của tứ chứng Fallot đều được sửa chữa, đạt kết quả tốt với tỉ lệ tử vong dưới 5%. Phẫu thuật được thực hiện tốt nhất từ 2- 3 tuổi. Nếu không được phẫu thuật, chỉ 10% trẻ sống đến 20 tuổi, dưới 3% trẻ sống đến 40 tuổi.
      
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -