Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Ngày nay, tỷ lệ nữ giới mắc các bệnh về táo bón cao hơn nam giới rất nhiều, các bạn nữ nên chú ý làm tốt công tác phòng chống căn bệnh này. Vậy thì nữ giới nên phòng chống bệnh này như thế nào? Sau đây chúng ta cùng lắng nghe ý kiến của chuyên gia

Phụ nữ nên phòng ngừa bệnh táo bón như thế nào?

1. Duy trì đại tiện dễ dàng, tạo thói quen đại tiện theo giờ mỗi ngày, khi bị táo bón, không nên gắng sức rặn, mà nên dùng nước muối ấm để tháo thụt phân hoặc cho vào trong hậu môn cho nhuận tràng, thông tiện.

2. Kịp thời điều trị viêm hốc hậu môn, nhằm ngăn ngừa sau khi viêm nhiễm hình thành viêm loét và lỗ rò dưới da.

3. Khi sử dụng thiết bị kiểm tra hậu môn, tránh thao tác mạnh làm tổn thương ống hậu môn.



4. Kịp thời điều trị các bệnh gây nên chứng táo bón như: viêm, loét kết tràng nhằm phòng ngừa việc dẫn đến nứt kẽ hậu môn, v.v...

5. Các bạn nữ cần đề phòng nứt kẽ hậu môn, không uống rượu, không ăn đồ cay nóng, đồ ăn uống cũng không nên quá thanh đạm mà nên kết hợp thức ăn có hàm lượng nhiều chất xơ, rau xanh, v.v... để đại tiện được đễ dàng.

Các bạn nữ nên điều trị như thế nào khi bị táo bón:

Về mặt lâm sàng, biểu hiện của chứng táo bón gây nứt kẽ hậu môn không giống nhau, chia thành giai đoạn vết nứt mới và giai đoạn vết nứt cũ. Do vậy cách điều trị cũng nên chia theo giai đoạn

1. Táo bón gây Nứt hậu môn giai đoạn đầu: các bác sĩ khuyên nên thoa kem bôi vào hậu môn nhằm làm giãn tĩnh mạch, giảm áp lực cơ vòng hậu môn, cầm máu và giảm đau. Sau đó, kết hợp trị liệu đông y để điều tiết bên trong cơ thể nhằm đạt mục đích chữa trị hiệu quả nứt hậu môn.

2. Điều trị vết nứt cũ, đầu tiên là áp dụng liệu pháp HCPT để làm hồi phục nhanh vết nứt, giảm viêm nhiễm, sau đó kết hợp thuốc ngâm rửa nhằm đạt được mục đích điều trị.

Ngoài ra hiện phòng khám đa khoa Thanh Trì áp dụng phương pháp thủy liệu đại tràng với thiết bị tiên tiến của Mỹ, điều trị dựa trên nguyên tắc “làm sạch, điều tiết, phục hồi nhanh” liệu pháp này đã có hiệu quả rõ rệt với bệnh nứt hậu môn và các bệnh lý về hậu môn khác, đồng thời xóa bỏ suy nghĩ sợ bệnh tái phát của người bệnh. Phương pháp thủy liệu đại tràng với thiết bị của Mỹ không chỉ là 1 phương pháp điều trị bệnh mà còn là 1 cách bảo dưỡng sức khỏe của cuộc sống hiện đại .

Lời khuyên của chuyên gia Thanh Trì: các bạn nữ cần chú ý làm tốt công tác phòng bệnh, khi phát hiện các triệu chứng nứt kẽ hậu môn, cần kịp thời đến bệnh viện có chuyên khoa về hậu môn trực tràng để điều trị, không nên để quá lâu. Sau cùng, xin chúc các bạn luôn mạnh khỏe và trẻ đẹp.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).


Đại cương
Gãy thân xương cánh tay chiếm khoảng 3% các gãy xương nói chung, có thể lựa chọn nhiều phương pháp điều trị, mặc dầu kết quả điều trị bảo tồn và phẫu thuật tương đương  như nhau. Tuy nhiên trước một gãy xương và bệnh nhân cụ thể, đòi hỏi phải có một kiến thức cơ bản về giải  phẫu và chức  năng của cánh tay để lựa chọn được đúng đắn phương pháp điều trị mang lại kết quả tối ưu.
Nguyên nhân
Thường do cơ chế chấn thương gián tiếp như ngã chống tay, do tai nạn sinh hoạt. Cơ chế chấn thương trực tiếp gặp trong tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội như đánh nhau, đâm chém nhau hoặc vết thương hỏa  khí, thường gây gãy hở.
Giải phẫu bệnh
Đường gãy
Thân xương cánh tay giới hạn từ bờ trên của chỗ bám cơ ngực lớn xuống đến giới hạn trên của mõm trên lồi cầu xương cánh tay. Đường gãy bao  gồm:
Đường gãy ngang.
Đường gãy chéo.
Đường gãy xoắn
Gãy có mảnh rời.
Gãy vụn.
Hướng di lệch
Tùy theo vị trí của chỗ gãy, lực tác dụng của cơ lên thân xương khác nhau,  dẫn đến các hướng di lệch đặc thù như sau:
Gãy trên chỗ bám của cơ ngực lớn: Đầu trên bị di lệch dạng và xoay ngoài do lực kéo của khối cơ xoay (cơ trên gai, cơ dưới gai, cơ dưới vai).
Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ  bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).
Gãy dưới chỗ bám của cơ delta: Đầu trên dạng, đầu dưới di lệch lên trên do co kéo của các cơ (không có cơ đối kháng).
Triệu chứng và chẩn đoán
Triệu chứng
Triệu chứng lâm sàng
Nạn nhân có các triệu chứng chủ yếu của gãy xương như đau, mất cơ năng cánh tay, bầm tím, sưng, biến dạng, sờ có điểm đau chói, tiếng lạo xạo, ngắn chi và cử động bất thường tại điểm gãy cũng là triệu chứng thường gặp. Ngoài ra phải đặc biệt chú ý đến tổn thương thần kinh và mạch máu liên quan, bao gồm dấu hiệu tổn thương thần kinh quay hay gặp, tổn thương động mạch cánh tay, thường biểu hiện mạch quay khó bắt hoặc không bắt được. Nếu có vết xây xát, rách da, vết thương chợt thì phải nghĩ đến gãy hở,  đòi hỏi điều trị cấp cứu.
Triệu chứng cận lâm sàng
Chụp phim X- quang chuẩn lấy hết khớp vai và khớp khuỷu tay ở hai bình diện vuông góc với nhau, thường phải dịch chuyển thay đổi tư thế bệnh nhân  để chụp, không nên chỉ xoay cánh tay để chụp. Trên phim ghi nhận được vị trí gãy, đường gãy, di lệch, mảnh rời...,trong trường hợp gãy bệnh lý, cần khám nghiệm thêm phim chụp cắt  lớp xương, chụp cắt lớp xử lý vi tính (CT Scanner), chụp cộng  hưởng từ (MRI) để nắm được giới hạn của xương  bệnh lý trước khi chỉ định điều trị.
Chẩn đoán
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng đặc hiệu như biến dạng, cử động bất thường, tiếng lạo xạo và hình ảnh chẩn đoán (X-quang, MRI...).
Nguyên tắc điều trị
Có nhiều phương pháp khác nhau có thể áp dụng để điều trị gãy thân xương cánh tay, đem lại kết quả tốt đẹp. Trong y văn, người ta đề cập nhiều đến  một tỷ lệ chậm liền xương và không liền xương trong phương pháp bảo tồn. Tuy nhiên, những tiến bộ gần đây về kỹ thuật nắn xương, bất động chi bằng nẹp bột, bó bột, nẹp plastic... đã làm giảm bớt đáng kể các di chứng này và làm cho phương pháp điều trị bảo tồn trở thành phương pháp được chọn lựa trong điều trị gãy thân xương  cánh tay. Trong khi đó, những  tiến bộ trong kỹ thuật bất  động xương trong hai mươi năm qua đã làm cho phương pháp điều trị gãy thân xương cánh tay bằng phẫu thuật đem lại kết quả lý tưởng, đặc biệt là đem lại kết quả chức năng sớm.
Điều trị bảo tồn (không mổ)
Thường không đạt được hình dạng giải phẫu của xương tốt, nhưng Klenerman cho thấy rằng gập góc ra trước 200 và gập vào trong tối đa 300   là cóthể chấp nhận được đối với thân xương cánh tay. Cần phải thao dõi  kiểm tra thường xuyên mới mong đem lại kết quả mỹ mãn được. Tùy thuộc vào kiểu gãy xương, cơ chế chấn thương, mức độ chấn thương mạnh hay nhẹ, mức độ sưng nề, tổn thương phần mềm, nhu cầu về cơ năng cũng như yêu cầu của bệnh nhân mà có thể lựa chọn các phương pháp khác nhau. Các phương pháp bảo tồn bao gồm:
Bột cánh tay treo
Phương pháp này do Caldwell giới thiệu năm 1933, ngày nay vẫn còn được  xem là phương pháp cơ bản trong điều trị gãy thân xương cánh tay. Nó được áp dụng tốt nhất trong các trường hợp gãy chéo, gãy xoắn hoặc gãy ngang có chồng ngắn. Thời gian đầu, có ý nghĩa nắn thẳng trục và chữa di lệch chồng ngắn, khi  kiểm tra sự kéo nắn đã đạt yêu cầu, có thể chuyển sang một phương pháp điều trị khác hoặc vẫn duy trì tiếp tục. Một khi lựa chọn duy trì tiếp tục bột cánh tay treo thì phải theo dõi kiểm  tra X-quang về tình trạng  xương bị kéo giãn quá và khả năng không liền xương.
Kỹ thuật cơ bản của phương pháp này là bó bột  tương đối nhẹ, từ 2cm trên chỗ  gãy đến cổ tay với khuỷu gấp 90cẳng tay tư thế trung gian, móc tạ 2-3  kg ngay dưới khủyu, thời gian 8-10 tuần. Hướng dẫn bệnh nhân luôn luôn để   cánh tay tư thế thẳng  đứng hoặc nửa thẳng đứng, như vậy xương cánh tay mới luôn bị kéo nắn được,  phải chụp X  -  quang kiểm tra hằng tuần trong 3  -  4 tuần đầu. Hạn chế của phương pháp này bao gồm ngắn chi, gập góc, biến dạng xoay, chậm liền xương hoặc không liền xương. Các biến chứng này hay gặp ở các bệnh nhâ béo mập, không chịu hợp tác trong quá trình   điều trị. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đã báo cáo một tỷ lệ liền xương từ   93-96% khi áp dụng phương pháp này.
Băng tam giác
Do Gilchrist mô tả, là phương pháp đơn giản, rẻ tiền, dễ làm, áp dụng đối với  các gãy không di lệch hoặc ít di lệch đối với trẻ dưới 8 tuổi, hoặc ở những người già không chịu nổi các phương pháp khác. Có thể dùng nhiều loại chất  đệm khác nhau chêm trong nách để điều chỉnh độ gập góc của ổ gãy
Nẹp bột chữ U (Coaptation splint)
Chỉ định trong gãy xương mới, điều trị tạm thời lúc đầu, các trường hợp gãy không di lệch hoặc ít di lệch, các trường hợp bệnh nhân không thể chịu đựng  được phương pháp bó bột cánh tay treo. Bột ôm hết nách, ôm vòng qua khối cơ Delta và ôm lấy khuỷu. Ưu điểm là bàn tay và cổ tay vận động tự do, khuỷu thì có thể vận động một phần. Nhược điểm là kích thích khó chịu vùng nách, thường liền xương tư thế hơi gập góc hoặc chi bị ngắn ít, bệnh nhân khó chịu.
Bột ngực vai cánh tay
Bột ôm ngực, vai và cánh tay, cánh tay ở tư thế dạng, ưu điểm là bất động tương đối cánh tay, nhưng hiện ít dùng vì quá nặng và gây khó chịu cho bệnh nhân, lại còn gây hạn chế vận động vai và tay để tư thế dạng lâu rất khó chịu. Ngày  nay, bột được thay thế bằng nẹp nhựa dẻo (abduction splint) nhẹ và thuận tiện hơn.
Bao ôm cánh tay
Là phương pháp điều trị bảo tồn hiện đại nhất, do Sarmiento đề xướng năm 1977. Bao chỉ ôm đoạn thân cánh tay và được ép  bởi  thủy lực.  Phương pháp này là đại diện cho sự ưu việt trong điều trị bảo tồn không mổ gãy thân xương cánh tay. Chỉ định khi gãy thân xương cánh tay đã hết sưng nề (trước đó được bất động bởi một trong các kỹ thuật trên), bệnh nhân được chỉ dẫn để cánh tay xuôi dọc thân mình càng nhiều càng tốt. Khi nào bệnh nhân tự dạng tay được 900 thì có thể tháo bỏ phương tiện ra. Ưu điểm là cho phép vận động được toàn bộ chi trên, tỷ lệ liền xương được báo cáo đạt 96-100%.
Điều trị phẫu thuật
Bao gồm các kỹ thuật sau:
Cố  định ngoài
Chỉ định trong gãy hở, có khiếm  khuyết da và phần mềm, các gãy vụn nhiều mảnh ở bệnh nhân có nhu cầu vận động sớm, các bệnh nhân gãy thân xương kèm tổn thương bỏng ở vùng khác cần lấy da để ghép, hoặc ở bệnh nhân có kèm gãy xương cẳng tay cùng bên.
Mổ kết hợp xương nẹp vít
Áp dụng kỹ thuật AO/ASIF (Arbeitgemeinschaft Fur Osteosynthesefragen/ The  Association for the Study of problems of Internal Fixation) đem lại kết quả tốt. Tuy nhiên có thể bị nhiễm trùng, liệt thần kinh quay hoặc đôi khi kết hợp xương không được.
Mổ đóng đinh nội tủy
Chỉ định trong các trường hợp nắn kín thất bại, gãy 1/3 giữa thân xương, gãy  có mảnh rời, gãy cũ không liền xương, gãy xương bệnh lý, gãy chéo hoặc gãy xoắn, ở bệnh nhân đa chấn thương. Chống chỉ định trong gãy kèm thương tổn thần kinh, gãy hở độ III.
Biến chứng
Liệt thần kinh quay
Gặp 18%  rong gãy kín thân xương cánh tay, trong số này 90% là liệt cơ năng (neurapraxia), bệnh nhân thường phục hồi tự nhiên sau 3-4 tháng. Liệt thần kinh quay cơ năng hay thoáng qua thường gặp sau các gãy ngang hoặc gãy chéo ngắn thân xương cánh tay. Đứt ngang thần kinh quay thường gặp trong các gãy hở, gãy liên quan với vết thương đâm chọc và trong lịch sử có nói đến gãy xoắn chéo đầu xa xương cánh tay (gãy Holstein-Lewis). Liệt thoáng qua của thần kinh gian cốt trước, thần kinh giữa, thần kinh trụ hiếm gặp, nếu có thì phục hồi tự nhiên sau 10  tuần. Liệt thần kinh giữa liên quan với các u xơ trên lồi cầu thì cần mổ giải phóng các giải xơ liên quan để liệt cải  thiện hoàn toàn.
Can xương liền tư thế xấu
Thường thì gập góc 20-300 hoặc ngắn  chi  2-3 cm ít để lại di chứng gì lớn. Biên độ vận động rộng của vai làm giảm đi ảnh hưởng của can xấu do xoay,  ngay cả những biến dạng lớn hơn cũng được thích nghi với một hạn chế cơ năng không đáng kể. Vấn đề thẩm mỹ ít khi được xem là chỉ định của phẫu thuật. Khi chỉ định mổ, đục cắt  xương và kết hợp xương vững chắc sẽ đem lại kết quả mỹ mãn.
Không liền xương
2-5%  ở bệnh nhân điều trị bảo tồn và 25% ở bệnh nhân được điều trị phẫu thuật ngay kỳ đầu. Không liền xương gặp nhiều hơn trong các gãy hở, gãy do chấn thương tốc độ cao, gãy có mảnh rời, các gãy mà nắn không tốt, gãy  được mổ nhưng bất động không vững. Các yếu tố thuận lợi là cứng khớp vai   hay khớp khuỷu có sẵn trước đó, phần mềm che phủ kém, bệnh nhân béo phệ, bị ung thư di căn, nghiện rượu dẫn đến loãng xương, đang điều trị với  corticosteroid, hoặc bị đa chấn  thương.
Nhiễm trùng không liền xương
Liên quan trực tiếp giữa bất động không vững và nhiễm trùng, đặc biệt trong gãy hở. Bất động vững, cắt lọc triệt để các mô chết kể cả xương, rửa sạch vết thương và dùng kháng sinh có hệ thống sẽ dẫn đến liền xương trong đa số các trường hợp. Việc đặt chuỗi cườm kháng sinh hoặc bơm kháng sinh tại chỗ đôi khi cần thiết  để khống chế tận gốc sự nhiễm trùng. Bất động bằng đinh nội tủy hay nẹp vít là chống chỉ định khi đang nhiễm  trùng, nhưng có thể dùng khi đã hết nhiễm trùng.
Không liền xương với khuyết xương
Khi không liền xương xảy ra kèm với khuyết xương trên 5cm thì đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật lại. Người ta khuyên nên ghép xương xốp dày có kèm theo vỏ xương, hoặc ghép xương có cuống mạch. Kỹ thuật bao  gồm cắt bỏ các mô xơ, tổ chức chết bao gồm cả đầu xương, làm thông lại ống tủy ở cả hai đầu xương, chèn xương  ghép vào giữa hai đầu gãy và bất động thật vững chắc.
Biến chứng mạch máu
Ítt gặp trong gãy kín, hay gặp trong gãy hở, gãy do dao chém hoặc hỏa khí. Nếu nghi ngờ có tổn thương mạch máu hoặc trong các gãy xương có nguy cơ cao tổn thương mạch máu thì nên chụp động mạch để xác định vị trí tổn thương để phục hồi lại. Việc phục hồi lại mạch máu được xem là chỉ định tuyệt đối trong các trường hợp bất động xương vững chắc với nẹp vit hoặc cố định ngoài. Trong đa số trường hợp, bất động xương gãy được thực hiện trước phẫu thuật mạch máu, cắt mở lớp cân ở cánh tay, cẳng tay hoặc bàn tay đôi khi cần thiết sau khi dòng máu được tái lập.
Dự phòng
Tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng về luật giao thông và lao động.
Cần giáo dục học sinh trong các trường phổ thông cơ sở nguyên nhân gây gãy xương để hạn chế các tai nạn xảy ra trong sinh hoạt và trong học đường.
Cần giáo dục cộng đồng sơ cứu tại chỗ tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương và phục hồi chức năng sau điều trị gãy xương.
Các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng gãy xương cánh tay.

Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng (= do chiều dài) thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại. Di lệch xoay đã được nắn khi đặt tư thế.



Đại cương
Gãy hai xương cẳng tay chiếm 15-20% các gãy xương ở vùng cẳng tay. Gặp ở mọi lứa tuổi. Là loại gãy xương có di lệch tương đối phức tạp, nhất là gãy 1/3 trên, nắn chỉnh hình khó khăn.
Nguyên nhân và cơ chế
Thường do té ngã, đánh nhau, tai nạn lưu thông.
Cơ chế trực tiếp: Ngã giập cẳng tay xuống mô đất cứng, giơ tay cản đỡ đòn... xương thường gãy ngang cả 2 xương ở cùng vị trí.
Cơ chế gián tiếp: Ngã chống tay khuỷu duỗi làm uốn bẻ gập 2 xương gây nên gãy chéo, xoắn, gãy bậc thang. Hai xương thường gãy ở hai vị trí khác nhau. Xương trụ  gãy thấp, xương quay gãy cao.
Cơ chế hỗn hợp: Vừa trực tiếp vừa gián tiếp, gây ra các kiểu gãy phức tạp: gãy 2 tầng, gãy có mảnh thứ 3...
Phân loại
Theo vị trí gãy trên xương quay chia ra:
Gãy 1/3 trên: Gãy trên chỗ bám cơ sấp tròn.
Gãy 1/3 giữa và 1/3 dưới: Gãy dưới chỗ bám cơ sấp tròn và cơ sấp vuông.
ý nghĩa của việc phân  loại này  nhằm đánh giá khả năng di lệch nhiều hay ít.
Gãy 1/3  trên
Đoạn gần ở tư thế ngửa hoàn toàn vì cơ ngửa ngắn và cơ nhị đầu kéo, đoạn  xa sấp do do cơ sấp tròn và cơ sấp vuông.
Gãy 2/3  dưới
Đoạn gần ngửa nhẹ vì ngoài hai cơ ngửa còn có sự tham gia ngược lại của cơ sấp  tròn, đoạn xa sấp vì cơ sấp vuông.
Các thể lâm sàng
Theo vị trí: Như trên.
Theo tuổi: Gãy xương ở người lớn.
Gãy xương ở trẻ em: Gãy tạo hình thì xương quay bị cong không thấy đường  gãy và gãy cành tươi thì xương chỉ gãy một bên vỏ xương, vỏ còn lại chỉ bị uốn cong.
Gãy kín hoặc gãy hở.
Chẩn đoán
Bệnh sử
Nguyên nhân và cơ chế.
Triệu chứng bệnh lâm sàng
Bao gồm dấu hiệu chắc chắn và không chắc chắn
Các dấu hiệu chắc chắn
Biến  dạng: Gập góc, ngắn, biến dạng bậc thang.
Tiếng lạo xạo: Phát hiện khi tìm điểm đau nhói hoặc cử động bất thường.
Cử động bất thường.
Dấu hiệu không chắc chắn:
Điểm  đau  nhói: Nếu có gãy xương thì nó chỉ vị trí gãy.
Sưng,  mất cơ năng: Đây là dấu hiệu cảnh giác, chỉ điểm, cần khám thêm các dấu hiệu khác.
Dồn gõ từ xa đau: Khó thực hiện làm, chỉ khi không có dấu hiệu chắc chắn của  gãy xương.
Cận lâm sàng
Chụp X-quang: Chụp 2 bình diện mặt và bên. Cả 2 đều để cẳng tay ở tư thế ngửa và lấy đủ các khớp hai đầu. Phim X-quang cho biết chính xác vị trí gãy, đường gãy và di lệch. Trên cơ sở đó ta có hướng điều trị.
Nguyên tắc điều trị
Sơ cứu
Gây tê ổ gãy: Dùng novocain 1-2% 10ml cho mỗi bên.
Đặt nẹp cố định: Nẹp gỗ, nẹp Cramer. Nên để cẳng tay ngửa khi đặt nẹp (để khi chụp X-quang không phải tháo nẹp).
Điều trị thực thụ
Nguyên tắc chung: Nắn - bất động - tập vận động.
Có hai phương pháp chính là điều trị bảo tồn và điều trị bằng phẫu thuật:
Điều trị bảo tồn: nắn kín và bó bột cánh - bàn tay
Vô cảm: Gây tê ổ gãy hoặc tê đám rối  hoặc gây mê (trẻ con nên cho gây mê).
Nắn xương: Theo 2 nguyên tắc:
Nắn đoạn gãy xa theo đoạn gãy gần.
Nắn di lệch chồng ngắn trước, các di lệch còn lại nắn sau. Vì vậy cần chú  ý khi nắn:
Phải đặt ở thế cẳng tay thích hợp tuỳ theo vị trí gãy: Nếu gãy 1/3 trên cẳng tay thì để ngửa hoàn toàn, còn gãy 2/3 dưới cẳng tay thì để ngửa nhẹ.
Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết  di lệch chồng (= do chiều dài)  thì nắn các di  lệch sang bên, gập góc còn lại. Di lệch xoay đã được nắn khi đặt tư thế.
Trong lúc nắn chú ý bóp vào giữa cẳng tay để tách màng liền cốt  để tránh sự   co kéo chạm đầu vào nhau giữa hai xương đầu và trụ.
Bất  động: Bó bột cánh-cẳng-bàn tay khuỷ gập 900. Trong lúc bó bột vẫn phải duy  trì lực kéo.
Có hai cách nắn bó:
Nắn bằng tay: Cần có 3 người: 1 người phụ giữ cánh tay, 1 người kéo cẳng tay và 1 người nắn.
Nắn bằng khung: Chỉ cần 1 người nắn. Bệnh nhân nằm ngửa, cánh tay dạng  900, khuỷu gập 900. Các ngón treo bằng các rọ may về phía trần nhà làm đối trọng. Lực kéo được đặt vào các cánh tay bằng các quả cân có trọng lượng  tăng dần tuỳ cơ thể bệnh nhân (có khi đến 7-10kg). Cẳng tay để ngửa hoàn   toàn khi gãy ở 1/3 trên và ngửa nhẹ khi gãy ở 2/3 dưới.
Đo chiều dài 2 xương, so sánh với bên lành, khi hết di lệch còn lại và tách màng liên cốt dựa vào phim X-quang
Bó bột cánh-cẳng- bàn tay chờ  bột khô mới bỏ tạ kéo. Nên rạch dọc bột nếu  chi sưng nề nhiều và cắt xén chỗ  bột  bó thừa nhất là ở lòng bàn tay (xem  thêm bài bó bột) Chụp X-quang kiểm tra sau khi  bó  bột. Nếu nắn tốt (di lệch đã nắn hết hoặc còn những di  lệch chấp nhận  được) có thể cho bệnh nhân về, hướng dẫn bệnh nhân tập vận động cử động các ngón tay, vai, kê cao chi  và tái khám bột theo thời gian quy định. Nếu nắn chưa tốt, có thể mở ra nắn lại lần thứ hai. Sau hai lần nắn mà vẫn không đạt yâu cầu nên chuyển phương pháp khác (mổ kết hợp xương  (KHX).
Điều trị bảo tồn thường có kết quả tốt ở các gãy xương dị lệch, gãy 2/3 dưới, gãy xương trẻ con.
Điều trị phẫu thuật
Phẫu thuật nhằm mục đích nắn lại chính xác và dùng dụng cụ KHX (như đinh, nẹp, vis) để cố định xương  gãy.
Ưu điểm:
Nắn xương được chính xác, phục hồi hình dáng giải phẫu ban đầu.
Có thể cố định xương gãy vững chắc (dùng nép AO) tránh được bất động các khớp, giúp bệnh nhân tập vận động, sớm, mau phục hồi  chức năng.
Khuyết  điểm:
 Có thể bị nhiễm trùng, viêm xương.
Có thể bị tổn thương thêm về giải phẫu và để lại sẹo ở tay.
Có thể có tai biến gây mê, gây tê...
Cần nhiều trang thiết bị tốt: Phòng mổ vô trùng, dụng cụ kết hợp xương chắc chắn và không gây dị ứng, phẫu thuật viên có tay nghề vững.
Phẫu thuật KHX thường dùng là:
Nẹp vít cho xương quay và xương trụ.
Nẹp vít cho xương quay, đinh Rush cho xương trụ.
Đinh Rush hoặc đinh nội  tủy cả hai xương.
Các loại đinh thường cố định không vững chắc do đó cần bó bột tăng cường 1 tháng.
Trong các gãy xương  hở, phẫu thuật chú ý là cắt lọc vết thương, cố định xương gãy thường dùng bó bột, cố định ngoài hoặc chỉ nên kết hợp xương  tối thiểu để giữ trục xương đồng thời bó bột tăng cường. Hạn chế dùng kết hợp xương phức tạp bên trong.
Biến chứng
Biến chứng sớm
Sốc chấn thương và tắc mạch máu do mỡ ít khi gặp trừ khi kết hợp nhiều tổn thương khác. Biến chứng thường gặp là:
Chèn ép khoang: Cẳng tay có 3 khoang, thường gặp chèn ép ở khoang trước (hội chứng Volkmann).
Chèn ép mạch máu, thần kinh.
Chọc thủng da dẫn đến gãy hở.
Biến chứng muộn
Can lệch: Thường gặp  do nắn không hết  dị lệch hoặc có dị lệch thứ phát trong bột mà không phát hiện, can lệch có thể là: chồng ngắn, gập góc, xoay,  hoặc 2 xương chụm đầu vào nhau (can liên cốt, can  chữ  X, K...) can lệch này làm mất chức năng sấp ngửa.
Khớp giả: Ít gặp hơn, thường do:
Chèn ép mô mềm vào hai đầu xương gãy.
Gãy nhiều mảnh, các mảnh dị lệch xa.
Mất đoạn xương (gãy hở).
 Kết hợp xương không vững chắc nhưng cho tập vận động sớm.
Nguồn dinh dưỡng kém thí dụ gãy 1/3 dưới xương trụ.
Hội chứng Volkmnn: Do chèn ép khoang điều trị không tốt.
Hội chứng rối loạn dinh dưỡng: Do bất động lâu ngày và không luyện tập dẫn đến teo cơ, loãng xương hạn chế vận động khớp.
Theo dõi, phục hồi chức năng sau điều trị
Nếu nắn tốt, bất động vững, xương sẽ liền sau hai tháng. Tập vận động thường xuyên trong thời gian bất động, giúp phục hồi chức năng tốt. Chú ý sấp ngửa cẳng tay đúng phương pháp.
Thời gian bất động bằng bột: 8-12  tuần, trẻ con: 4-6 tuần.
Nếu sau thời gian này xương chưa liền vững, có thể bất động thêm  2-4 tuần. Nếu vẫn không liền có thể có chậm  liền xương hay khớp giả.
Trong loại gãy xương cành tươi ở trẻ con, cần nắn cho gãy luôn vỏ xương còn lại sau đó bó bột như các gãy 2 xương cẳng tay khác.
Các thể lâm sàng gãy xương cẳng tay
Gãy đơn thuần một xương quay hoặc trụ
Gãy đơn thuần một xương quay hoặc trụ ít gặp hơn gãy xương cả hai xương.  Có  thể vì  lực tác động không đủ mạnh để bẻ gãy xương còn  lại. Tuy nhiên cần khám kỹ  2 khớp quay trụ trên và dưới để tránh bỏ sót tổn thương ở hai nơi này.
Thường gặp gãy 1/3 giữa xương quay hoặc 1/3 dưới xương trụ.
Về lâm sàng bệnh  nhân mất cơ năng không hoàn toàn, ít khi thấy biến dạng khi nhìn (có thể thấy biến dạng khi sờ (như bậc thang), có sưng nề, đau nhói vùng gãy và đôi khi có tiếng lạo xạo. Ấn dọc xương còn lại và các khớp không đau. Cần chụp X-quang toàn bộ cẳng tay, có thể thấy gãy ngang hoặc chéo, thường ít di lệch. (Nếu gãy có di lệch nhiều khi khó nắn).
Điều trị: Bảo tồn bằng nắn bó bột cánh-cẳng-bàn tay. Nếu thất bại thì phải mổ kết hợp xương, dùng đinh Rush hoặc nẹp vis.
Dự hậu thường tốt nếu nắn được tốt.
Gãy 1/3 dưới xương trụ có nguy cơ khớp giả hoặc chậm liền xương vì nguồn dinh dưỡng kém.
Thời gian bất động như gãy 2 xương cẳng tay.
Gãy trật Monteggia
Đặc điểm
Gãy 1/3 trên xương trụ kèm trật khớp quay-trụ trên (do đứt dây chằng vòng)   được Monteggia giới thiệu lần đầu tiên tại Milan vào 1814. Trong việc điều trị   nếu đến muộn thường khó nắn. Bó bột lâu ngày thường bị cứng khớp khuỷu,  nếu cố định không vững chắc, cho tập sớm khớp dễ bị trật lại và có nhiều nguy cơ khớp giả xương trụ.
Nguyên nhân và cơ chế
Gãy trật Monteggia có cơchế vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Xương trụ gãy do lực tác động trực tiếp, xương quay trật do lực gián tiếp. Nguyên nhân   thường thấy do bệnh nhận bị đánh trực tiếp vào cẳng tay và đưa tay lên đỡ. Tương tự cũng có thể do té đập cẳng tay vào bờ đất cứng ở tư thế gập khuỷu.
Phân loại
Phân độ của Bado gồm 4 type:
Chỏm quay trật ra trước, xương trụ gãy gập góc ra trước, chiếm 60% trường hợp.
Chỏm quay trật ra sau hoặc sau ngoài, xương trụ gãy gập góc ra trước chiếm 15%.
Chỏm quay trật ra ngoài hoặc trước ngoài, gãy vùng hành xương ở đầu trên của  xương trụ chiếm 20%.
Chỏm quay trật ra trước kèm gãy thân cả hai xương quay và trụ.
Hoặc có thể chia gãy Monteggia thành 2 thể:
Thể ưỡn: Chỏm xương quay trật ra trước, xương trụ gãy gập góc mở ra sau. (hay gặp).
Thể  gấp: Chỏm xương quay trật ra sau, xương trụ gãy gập góc mở ra trước. (ít gặp).
Chẩn đoán
Cơ chế chấn thương.
Triệu chứng lâm sàng:
Tìm các triệu chứng để chứng tỏ có gãy xương trụ và trật khớp quay trụ trên.
Dấu hiệu gãy xương trụ:
Sưng đau 1/3 trên xương trụ.
Biến dạng gập góc mở ra sau (thể ưỡn) hoặc mở ra trước (thể gập) đôi khi chỉ thấy biến dạng khi sờ dọc 1/3 trên xương trụ.
Dấu hiệu trật khớp quay-trụ trên: thể hiện qua trật khớp cánh tay-quay hay trật chỏm quay: chỏm quay không còn ở vị trí bình thường (ở trước mỏm trên lồi  cầu khi  khuỷu gập và dưới mỏm này khi khuỷu duỗi). Bệnh nhân bị hạn chế sấp ngửa cẳng tay.
X-Quang
Phim X-quang xác định có gãy xương trụ 1/3  trên và trật chỏm xương quay (mất khe khớp  cánh tay - quay, cái chấm của chữ i (lồi cầu) không có nằm ngay đỉnh của chữ  i (chỏm xương quay).
Điều trị
Có thể điều trị bảo  tồn hoặc phẫu thuật:
Bảo tồn
Nắn bó bột cánh-cẳng-bàn tay:
Dùng trong các gãy mới.
Nắn như nắn gãy hai xương cẳng tay. Cần đặc biệt chú ý nắn hết di lệch chồng của xương  trụ thì chỏm xương quay mới có thể vào được. Khi nắn đo chiều dài xương trụ đến khi hết di lệch chồng sẽ nắn đẩy chỏm quay vào.  Sau khi nắn, cho khuỷu gập  tối đa, kiểm tra lại vị trí chỏm xương quay, sau đó bó bột cánh - bàn tay khuỷu gập 900 cẳng tay để  ngửa, giữ bột  3 tuần, nếu chỏm quay không bị trật lại giữ bột thêm 3-5 tuần nữa tư thế căng tay trung tính.
Phẫu thuật
Nếu nắn không vào nên mổ sớm để đặt lại khớp và kết hợp xương  trụ. Xương  trụ gãy sẽ được cố định bằng đinh Rush (nếu gãy ngang) hoặc bằng nép vis (nếu gãy chéo hoặc nhiều mảnh).
Chỏm quay nắn vào nếu dễ bị trật lại cần tái tạo dây chằng vòng.
Trường hợp đến muộn, chỏm quay khó nắn vào (nếu nắn vào cũng dễ gây cứng khớp về sau), nên cắt bỏ chỏm.
Nếu chỏm quay không dễ dàng  bị trật lại thì sau mổ nên cho bệnh nhân tập vận động sớm để tránh hạn chế sấp ngửa.
Dự hậu và  biến chứng
Nếu nắn vào tốt, bệnh nhân sẽ  lấy lại được chức năng vận động.  Tuy nhiên cũng hay gặp nhiều biến chứng sớm:
Cal lệch, khớp giả xương  trụ.
Chỏm xương quay còn di lệch, bệnh  nhân bị mất chức năng sấp ngửa cẳng tay và không gặp khuỷu tối đa được.
Cứng khớp khuỷu; do nhiều nguyên nhân làm cốt hoá quanh khớp như nắn thô bạo, đắp thuốc...
Gãy trật Galéazzi
Là loại gãy 1/3 dưới xương quay kèm trật khớp quay trụ dưới.
Nguyên nhân và cơ chế
Thường do té chống tay cổ tay duỗi.
Tổn thương giải phẫu
Gồm có:
Gãy 1/3  dưới xương quay, rách màng liên cốt, trật khớp quay trụ dưới, đứt dây chằng tam giác hoặc gãy mỏm trâm xương trụ.
Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng lâm sàng và X-quang.
Triệu chứng lâm sàng: Sưng, đau và biến dạng 1/3 dưới xương  quay. Biến dạng rất  điển hình: cẳng tay gập góc mở ra ngoài, cổ tay lật sấp về phía  xương quay.  Mỏm trâm quay lên cao hơn mỏm trâm trụ.
X quang: xác định chẩn  đoán  các  tổn thương kể trên.
Điều trị
Sơ cứu
Gây tê ổ gãy: Dùng novocain 1-2% 10ml cho mỗi  bên.
Đặt nẹp cố định: Nẹp gỗ, nẹp Cramer. Nên để cẳng tay ngửa khi đặt nẹp (để khi  chụp X-quang không phải tháo nẹp).
Điều trị thực thụ
Nguyên tắc chung: Nắn, bất động, tập vận động.
Có hai phương pháp chính:
Điều trị bảo tồn:
Nắn kín và bó  bột cánh-cẳng-bàn tay được chỉ định trong các trường hợp gãy không di lệch.
Vô cảm: Gây tê ổ gãy hoặc tê đám rối  hoặc gây mê (trẻ con nên cho gây mê).
Nắn xương: Theo 2 nguyên tắc:
Nắn đoạn gãy xa theo đoạn gãy gần.
Nắn di lệch chồng ngắn trước, các di lệch còn lại nắn sau. Vì vậy cần chú ý khi nắn:
Phải đặt ở thế cẳng tay thích hợp tuỳ theo vị trí gãy:
Gãy 1/3 trên cẳng tay để ngửa hoàn toàn.
Gãy 2/3 dưới cẳng tay để ngửa nhẹ.
Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng (= do chiều dài) thì nắn các di  lệch sang bên, gập góc còn lại. Di lệch xoay đã được nắn khi đặt tư thế.
Trong lúc nắn chú ý bóp vào giữa cẳng tay để tách màng liền cốt để tránh sự   co kéo chạm đầu vào nhau giữa hai xương đầu và trụ.
Bất động: Bó bột cánh-cẳng-bàn tay khuỷ gập 900. Trong lúc bó bột vẫn phải duy trì lực kéo.
Có hai cách nắn bó:
Nắn bằng tay: Cần có 3 người: 1 người phụ nữ  giữ cánh tay, 1 người kéo cẳng tay và 1 người nắn.
Nắn bằng khung: Chỉ cần 1 người nắn. Bệnh nhân nằm ngửa, cánh tay dạng 900, khuỷu gập 900. Các ngón treo bằng các rọ may về phía trần nhà làm đối trọng. Lực kéo được đặt vào các cánh tay bằng các quả cân có trọng lượng tăng dần tuỳ cơ thể bệnh nhân (có khi đến 7-10kg). Cẳng tay để ngửa hoàn toàn khi gãy ở 1/3 trên và ngửa nhẹ khi gãy ở 2/3 dưới. Đo chiều dài  2 xương, so sánh với bên lành, khi hết di lệch còn lại và tách màng liên cốt  dựa vào phim X-quang. Bó bột cánh bàn tay chờ bột khô mới bỏ tạ kéo. Nên rạch dọc  bột nếu chi sưng nề nhiều và cắt xén chỗ  bột bó thừa nhất là ở lòng bàn tay (xem thêm bài bó bột).
Chụp X-quang kiểm tra sau khi bó bột. Nếu nắn tốt (di lệch đã nắn hết hoặc còn những di lệch chấp nhận được) có thể cho bệnh nhân về, hướng dẫn bệnh nhân tập vận động cử động các ngón tay, vai, kê cao chi và tái khám bột theo thời gian quy định. Nếu nắn chưa tốt, có thể mở ra nắn lại lần thứ hai. Sau hai lần nắn mà vẫn không đạt yêu cầu nên chuyển phương pháp khác (mổ kết hợp xương).
Điều trị bảo tồn thường có kết quả tốt ở các gãy xương dị lệch, gãy 2/3 dưới, gãy xương trẻ con.
Điều trị phẫu thuật: Phẫu thuật nhằm mục  đích nắn  lại chính  xác và dùng dụng cụ  KHX (như đinh, nẹp, vít) để  cố định xương gãy. Chỉ định trong các  trường hợp gãy có di lệch.
Ưu điểm:
Nắn xương được chính xác, phục hồi hình dáng giải phẫu ban đầu.
Có  thể cố định xương gãy vững chắc (dùng nép AO) tránh được bất động các  khớp, giúp bệnh nhân tập vận động, sớm mau phục hồi chức năng.
Khuyết điểm:
Có thể bị nhiễm trùng, viêm xương.
Có thể bị tổn thương thêm về giải phẫu và để lại sẹo ở tay.
Có thể có tai biến gây mê, gây tê.
Cần nhiều trang thiết bị tốt: Phòng mổ vô trùng, dụng cụ KHX chắc chắn và không gây dị ứng, phẫu thuật viên có tay nghề vững.
Phẫu thuật kết hợp xương thường dùng là nẹp vis cho xương quay.
Trong các gãy xương hở, phẫu thuật chú  ý là cắt lọc vết thương, cố định xương gãy  thường dùng bó bột, cố định ngoài hoặc chỉ nên kết hợp xương  tối thiểu để giữ trục xương đồng thời bó bột tăng cường. Hạn chế dùng kết hợp xương phức tạp bên trong.
Dự phòng
Tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng về luật giao thông và lao động.
Cần giáo dục học sinh trong các trường phổ thông cơ sở nguyên nhân gây gãy xương để hạn chế các tai nạn xảy ra trong sinh hoạt và trong học  đường.
Cần giáo dục cộng  đồng sơ cứu tại chỗ tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương.
Đối với các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng và chuyển lên tuyến y tế chuyên khoa điều trị sớm để giảm thiểu các biến chứng do gãy 2  xương cẳng tay gây ra như hội chứng Volkmann, hạn chế vận động cẳng tay.
Giáo dục cho bệnh nhân tập luyện phục hồi chức năng sau điều trị

Vị trí gãy ở vùng 5cm dưới mấu chuyển bé. Đây là vị trí gãy có nhiều di lệch phức tạp do sự co kéo mạnh của các khối cơ theo nhiều hướng khác nhau ở đầu trên xương đùi.



 Đại cương
Gãy thân xương đùi được giới hạn từ bờ dưới mấu chuyển lớn đến bờ trên lồi cầu ngoài 5cm. Xương đùi là một xương có sự chống đỡ đặc thù đối với mọi chấn thương do cấu trúc giải phẫu của nó. Đó là do 3 độ cong sinh lý và sự bố trí vùng chịu lực.
Vì là một xương lớn có nhiều cơ mạnh bám vào nên gãy xương đùi thường do chấn thương mạnh, do vậy dễ gây ra choáng mà cần xử lý cấp cứu là bồi phụ tuần hoàn và bất động.
Thường xảy ra ở lứa tuổi lao động 12-15% và ngày nay gặp nhiều trong tai nạn lưu thông.
Gãy xương đùi được phân loại theo giải phẫu học và vị trí đường gãy: 1/4  trên, 2/4 giữa, 1/4 dưới. Đối với gãy 1/4  trên sát mấu chuyển thì khó phân biệt gãy mấu chuyển. Chú  ý gãy 1/4 dưới xương đùi hoặc gãy liên lồi cấu,  điều trị  khá phức tạp, biến chứng cứng khớp gối dễ xảy ra.
Sinh lý giải phẫu
Ổ gãy ở đầu trên xương đùi
Vị trí gãy ở vùng 5cm dưới mấu chuyển bé. Đây là vị trí gãy có nhiều di lệch phức tạp do sự co kéo mạnh của các khối cơ theo nhiều hướng khác nhau ở đầu trên xương đùi.
Các cơ mông rất mạnh bám vào vùng mấu chuyển lớn, khi co kéo gãy đầu trên dạng và xoay ra ngoài.
Cơ thắt lưng chậu bám vào mấu chuyển bé làm đầu trên gập ra trước.
Kết quả là gây gập góc và di lệch nhiều.
Các cơ khép và cơ thẳng trong kéo mạnh đoạn dưới vào trong và xoay ra ngoài.
Ổ gãy 2/4 giữa thân xương đùi
Ít có sự di lệch phức tạp so với đoạn gãy trên, ống tủy hẹp đều và có hình trụ trên một đoạn dài, tính chất này thuận lợi cho việc áp dụng đóng đinh nội tuỷ hơn là áp dụng các phương pháp điều trị khác.
Ổ gãy ở đầu dưới thân xương đùi
Đường gãy thường là ngang hoặc chéo xuống dưới và ra trước. Đoạn gãy trên dễ bị co kéo mạnh và đâm  thọc vào khối cơ duỗi đùi, trong khi đó đoạn dưới bị kéo ra sau bởi khối cơ sinh đôi, do vậy dễ gây thương tổn bó mạch  - thần kinh ở phía sau.
Lâm sàng
Nguyên nhân
Thường do một chạm thương mạnh trực tiếp như tai nạn lưu thông, hoặc một chạm  thương gián tiếp kết hợp với gấp và vặn xoắn. Thường gặp ở người lớn và trẻ từ 3-5 tuổi.
Đường gãy
Gồm có gãy ngang, gãy chéo, gãy xoắn, gãy 2 ổ hoặc gãy vụn.
Đường gãy ngang: Thường do gập góc, dạng gãy này sau khi nắn tốt thì   thường vững chắc hơn các dạng gãy khác.
 Đường gãy chéo, xoắn: Thường do gập góc kèm theo vặn xoắn cơ thể.
Dạng gãy này không vững chắc sau khi nắn.
Sự di lệch
Tuỳ theo vị trí gãy và có các hình thái di lệch khác nhau. Các di lệch thường gặp là gập góc, lệch sang bên, chồng lên nhau, xoay ngoài của đoạn gãy xa.
Thăm khám lâm sàng
Bệnh nhân có thể đau dữ dội ở vùng đùi.
Mất cơ năng hoàn toàn, bệnh nhân không thể nhấc chân lên được.
Cần phải nghĩ đến choáng có thể xảy ra để đề phòng và điều trị
Khám tại chỗ thường thấy rõ các biến dạng đặc thù:
Gập góc, làm đùi có dáng  vòng quai do mở góc vào trong nhất là khi gãy ở đoạn trên xương đùi.
Đùi sưng to.
Chi thường ngắn so với bên lành.
Bàn chân xoay ngoài, bờ ngoài bàn chân nằm sát mặt phẳng nằm của bệnh nhân. Đối với gãy thấp, do đầu gãy xa bị kéo ra sau dễ chèn vào bó mạch, thần kinh, ổ khoeo, do vậy cần xác định rõ có tổn thương mạch máu, thần kinh hay không. Chú ý vận động gấp duỗi bàn chân hoặc vùng mất cảm giác ở gan chân và một vùng nhỏ trước cổ chân trong trường hợp có chèn ép thần kinh hông khoeo.
Ngoài ra cần khám kỹ vùng háng và gối để phát hiện các thương tổn phối hợp như vỡ ổ cối, trật khớp háng, đứt dây chằng chéo sau, vỡ xương bánh chè.
Cần khám kỹ bàn chân để phát hiện các thương tổn do đa chấn thương.
Chú ý sọ não, cột sống, vỡ tạng trong ổ phúc mạc.
X quang
Mặc dù chẩn đoán bằng X quang là cần thiết, nhưng cần khám kỹ lâm sàng  để tránh bỏ  sót thương tổn. Một số trường hợp bỏ sót trật khớp háng trong gãy thân xương đùi vì chỉ chụp giới hạn ổ gãy. Do vậy để có một phim X quang tốt cần chú ý:
Chụp lấy được 2 khớp của  đầu xương gãy ít nhất hai bình diện thẳng và nghiêng.
Chụp xương bên lành để so sánh nếu thấy cần thiết.
Biến chứng
Choáng
Choáng có thể thoáng qua nhờ giảm đau bởi bất động tạm thời tốt, choáng này thường do đau đớn.
Choáng có thể do mất máu của ổ gãy, cần đo vòng đùi để ước lượng, nếu vòng đùi quá căng so với bên lành có thể mất quá 500ml ở người 50kg.
Mất mạch ở khoeo và cổ chân
Nguyên nhân do động mạch đùi bị đứt  hoặc do chèn ép của đoạn gãy xa nhất là gãy đầu dưới xương đùi, gãy trên lồi cầu xương đùi. Hoặc có thể do máu từ ổ gãy tràn vào chèn ép động mạch khoeo. Triệu chứng có thể biểu hiện với đau nhức vùng cẳng chân, tê rần đầu chi, vùng cẳng bàn chân lạnh,  tại vùng hỏm khoeo rất căng.
Khi chẩn đoán có sự chèn ép hoặc đứt mạch ở khoeo phải giải phẫu ngay để nối  mạch hoặc giải phóng chèn ép.
Tắc mạch do mỡ
Hiếm gặp, cần chú ý khi: Gãy xương nhiều mảnh.
Dập mô mềm nhiều.
Đe doạ choáng hoặc có choáng.
Xuất huyết kết mạc mắt, da.
Khó thở.
PCO2 máu tăng cao.
Có váng mỡ trong nước tiểu.
Cần phải cấp cứu  kịp thời vì tỷ lệ tử vong  cao.
Nguyên tắc điều trị
Sơ cứu, cấp cứu
Cần bất động tạm thời và chống choáng. ở người lớn có thể mất  đến 1 lít máu qua ổ gãy. Nếu bất động kém sẽ gây thêm đau đớn  và có thể choáng nặng nguy hiểm  đến tính  mạng. Do vậy cần phải  chống choáng, cần truyền  1-2  lít dịch và truyền máu nếu có, sau đó kiểm tra đã bất động tốt chưa rồi mới vận chuyển  đến nơi điều trị thực thụ.
Nếu ổ gãy có xây xát da hoặc có vết thương  rộng cần băng ép vô trùng, dùng kháng sinh mạnh đường tĩnh mạch và thuốc chống uốn ván.
Bất động xương đùi vững chắc đòi hỏi phải đặt nẹp quá chậu hông, có loại nẹp khá tiện dụng là nẹp Thomas - Lardennois, vừa bất động vừa kéo liên tục  nhẹ và cố định nhanh chóng nhất là trong trường hợp có hàng loạt chấn thương. Trong điều kiện ở Việt Nam có thể dùng nẹp tre, gỗ. Nẹp phải to bản (10cm) và dày  (1cm). Có  thể dùng 2 hoặc 3 nẹp, thường dùng 2 nẹp: 1 đặt  ở ngoài  từ nách đến quá mắt cá ngoài; 1 nẹp ở háng đến mắt cá trong.
Điều trị thực thụ
Do xương đùi  to chắc, có nhiều cơ mạnh bám cho nên dù nắn tốt cũng không thể cố định tốt trong bột được, rất dễ bị di  lệch thứ phát. Hiện nay phương pháp điều trị chỉnh hình chủ yếu áp dụng cho trẻ < 15 tuổi, còn ngoài ra phần lớn phải phẫu thuật.
Phương pháp chỉnh hình
Bó bột:
Chỉ áp dụng cho trẻ em, các trường hợp gãy nhiều mảnh ít di lệch, gãy không di lệch, gãy cài nhau. Ngoài ra trong hoàn cảnh nước ta các nơi không đủ điều kiện vô trùng, dụng cụ, kinh tế thì đây là phương pháp duy nhất.
Cần tiêm giảm đau toàn thân nếu có, thường dùng morphin (10mg/50kg) saukhi loại trừ các  chống chỉ định. Ngoài ra có thể gây tê ổ gãy với xylocain (30-50ml) (1%).
Sau khi cho giảm đau khoảng 10  phút, cần tiến hành nắn sửa trên bàn chỉnh hình. Kéo từ từ trong 10 phút sửa di lệch chồng ngắn (đo chiều dài tuyệt đối 2 chi  bằng nhau). Sau đó sửa di lệch xoay và làm cài hai đầu xương vào nhau rồi  sửa các di lệch ngang. Giữ yên tư thế nắn (đùi dạng 300 so trục cơ thể, gối hơi gấp 1700), sau đó bó bột chậu-lưng-chân; bột giữ khoảng 2-3 tháng tùy tuổi cũng như đường gãy. Trong thời gian bó cho bệnh nhân đi lại trên nạng, không chống chân đau. Nên kiểm  tra X quang hàng  tuần cho đến khi thấy xương liền chắc.
Sau hai tháng khi  thấy xương đã liền có thể cho  đi trên bột từ 1-2 tháng nữa. Sau khi mở bột bệnh nhân tập đi chống chân đau có nạng, dần dần cơ tứ đầu, khớp háng và gối sẽ phục hồi từ 6 tháng đến một năm.
Kéo liên tục xuyên qua xương: thường áp dụng đối với trẻ em (không mổ), người già, gãy hở, gãy vụn, gãy bệnh lý, tổng trạng kém hoặc kéo trong thời gian chờ mổ.
Việc kéo được thực hiện qua trung gian một móc kéo với tạ # 1/7 trọng lượng cơ thể, kéo theo trục xương  đùi.
Có thể xuyên đinh qua lồi củ trước xương chày để  kéo trong trường hợp gãy 1/3 dưới, bất tiện là giãn dây chằng khớp.
Hoặc kéo xương qua các lồi cầu xương đùi, cho phép kéo trực tiếp trên xương đùi, không sợ giãn dây chằng gối  nhưng bất tiện là gây trở ngại cho kết hợp xương sau này.
Cần dùng đinh to (Steimann 4mm).
Nên kéo trên giàn Braun, gối gấp nhẹ, bàn chân 900. Đùi nên giữ ở sau để tránh sự giãn quá mức.
Trong thời gian kéo nên kiểm tra lâm sàng  hằng ngày và X quang hàng tuần để điều chỉnh tạ kéo, bắt đầu giảm trọng lượng tạ dần dần từ tuần  8 và sau 6 tuần có thể làm  bột chậu-lưng-chân. Trong thời gian kéo tạ cần tập vận động cơ tứ đầu, các khớp để tránh các biến chứng sau khi  đã liền xương.
Có thể xuyên đinh qua lồi củ trước xương chày để kéo trong trường hợp gãy 1/3 dưới, bất tiện là giãn dây chằng khớp.
Hoặc kéo xương qua các lồi cầu xương đùi, cho phép kéo trực tiếp trên xương đùi, không sợ giãn dây chằng gối nhưng bất tiện là gây trở ngại cho kết hợp xương sau này.
Điều trị phẫu thuật
Là phương pháp điều trị hữu hiệu tích cực nhất hiện nay.
Đóng đinh nội tủy:
Áp dụng cho các trường hợp gãy thân xương đùi, tốt nhất đoạn 2/4 giữa, áp  dụng trong tất cả cáctrường hợp gãy ngang, chéo, nhiều mảnh, gãy 2 ổ.  Đóng đinh nội tủy được xem là phương pháp tốt nhấthiện nay. Nhờ màn tăng sáng, người ta đóng đinh không mở ổ gãy và có khoan rộng ống tủy. Để chống xoay của đoạn gãy xa người ta tăng cường chốt ngang qua xương. Trong trường hợp đường gãy thấp ở đoạn 1/3 giữa và dưới, có thể tiến hành đóng đinh nội tủy có chốt ngang ngược dòng từ đầu dưới xương đùi.
Đối với gãy vụn có thể không cần khoang ống tủy, chỉ mang tính chất  sắp xếp xương  thẳng trục, người ta kéo liên tục tăng cường 2-3 tuần đến khi có can để chống xoay.
Trong điều kiện thiếu phương tiện ở Việt Nam, thường đóng đinh ngược dòng mở ổ gãy. Sau một tuần bắt đầu cho chống chân xuống đất và tập đi với nạng trong các trường gãy vững.
Kết hợp xương bằng nẹp vít:
Ưu điểm là nắn hoàn chỉnh đoạn xương gãy, tập vận động sớm.
Nhược điểm:
Làm chậm liền xương.
Giới hạn các vận động  cơ do  bóc tách khi mổ.
Nhiễm trùng.
Kết hợp xương nẹp vít thường áp dụng trong các trường hợp gãy gần các đầu xương.
Cố định ngoài:
Được áp dụng trong các trường hợp gãy hở  với thương tổn phần mềm và thương tổn mạch máu thần kinh.
Điều trị gãy thân xương đùi ở trẻ em
Do tính chất xương trẻ em sức co cơ yếu, xương còn phát triển và sẽ tự điều chỉnh lại, nên chỉ định phẫu thuật hạn chế mà chủ yếu là điều trị chỉnh hình.
Trẻ mới sinh: Do đẻ khó, dùng bìa cứng để bất động khoảng 10 ngày là đủ.
Trẻ < 2 tuổi: Bó bột ếch 3 tuần.
Trẻ 2-6 tuổi:
Gãy ít di lệch: Bột chậu lưng chân 3 tuần.
Gãy di lệch nhiều, khó nắn thì nên kéo liên tục với băng dính kéo chân thẳng lên trời, mông phía chi  gãy cách mặt giường vài cm. Kéo với tạ 2-3 kg trong 3  tuần. Sau đó nên thay bằng bột chậu-lưng-chân. Kéo băng dính có  thể  làm  tách và nắn lại ổ gãy, nhưng  nếu còn gập góc nhẹ, chồng ngắn nhẹ thì sẽ tự điều chỉnh vài năm sau.
Bất tiện là:
Nằm lâu trên giường.
Hạn chế vận động gối.
Can xấu.
Trẻ 6-14  tuổi:
Nếu gãy vững ít di lệch thì kéo nắn và bó bột chậu-lưng-chân trong 6-8 tuần.
Nếu gãy di lệch nhiều không vững thì nên kéo liên tục 3-4 tuần với xuyên qua xương, sau đó bó bột tăng cường.
Dự phòng
Tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng về luật giao thông và lao động.
Cần giáo dục cộng đồng sơ cứu tại chỗ và bất động gãy xương tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương  và choáng.
Đối với các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng và chuyển lên tuyến y tế chuyên khoa điều trị sớm để giảm thiểu các biến chứng do gãy thân xương đùi.
Giáo dục cho bệnh nhân tập luyện phục hồi chức năng sau điều trị.

Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -