Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).



Đại cương
Gãy thân xương cánh tay chiếm khoảng 3% các gãy xương nói chung, có thể lựa chọn nhiều phương pháp điều trị, mặc dầu kết quả điều trị bảo tồn và phẫu thuật tương đương  như nhau. Tuy nhiên trước một gãy xương và bệnh nhân cụ thể, đòi hỏi phải có một kiến thức cơ bản về giải  phẫu và chức  năng của cánh tay để lựa chọn được đúng đắn phương pháp điều trị mang lại kết quả tối ưu.
Nguyên nhân
Thường do cơ chế chấn thương gián tiếp như ngã chống tay, do tai nạn sinh hoạt. Cơ chế chấn thương trực tiếp gặp trong tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội như đánh nhau, đâm chém nhau hoặc vết thương hỏa  khí, thường gây gãy hở.
Giải phẫu bệnh
Đường gãy
Thân xương cánh tay giới hạn từ bờ trên của chỗ bám cơ ngực lớn xuống đến giới hạn trên của mõm trên lồi cầu xương cánh tay. Đường gãy bao  gồm:
Đường gãy ngang.
Đường gãy chéo.
Đường gãy xoắn
Gãy có mảnh rời.
Gãy vụn.
Hướng di lệch
Tùy theo vị trí của chỗ gãy, lực tác dụng của cơ lên thân xương khác nhau,  dẫn đến các hướng di lệch đặc thù như sau:
Gãy trên chỗ bám của cơ ngực lớn: Đầu trên bị di lệch dạng và xoay ngoài do lực kéo của khối cơ xoay (cơ trên gai, cơ dưới gai, cơ dưới vai).
Gãy giữa chỗ bám của cơ ngực lớn và chỗ  bám của cơ delta: Đầu trên khép (do cơ ngực lớn kéo), đầu dưới di lệch lên và ra ngoài (do cơ delta kéo).
Gãy dưới chỗ bám của cơ delta: Đầu trên dạng, đầu dưới di lệch lên trên do co kéo của các cơ (không có cơ đối kháng).
Triệu chứng và chẩn đoán
Triệu chứng
Triệu chứng lâm sàng
Nạn nhân có các triệu chứng chủ yếu của gãy xương như đau, mất cơ năng cánh tay, bầm tím, sưng, biến dạng, sờ có điểm đau chói, tiếng lạo xạo, ngắn chi và cử động bất thường tại điểm gãy cũng là triệu chứng thường gặp. Ngoài ra phải đặc biệt chú ý đến tổn thương thần kinh và mạch máu liên quan, bao gồm dấu hiệu tổn thương thần kinh quay hay gặp, tổn thương động mạch cánh tay, thường biểu hiện mạch quay khó bắt hoặc không bắt được. Nếu có vết xây xát, rách da, vết thương chợt thì phải nghĩ đến gãy hở,  đòi hỏi điều trị cấp cứu.
Triệu chứng cận lâm sàng
Chụp phim X- quang chuẩn lấy hết khớp vai và khớp khuỷu tay ở hai bình diện vuông góc với nhau, thường phải dịch chuyển thay đổi tư thế bệnh nhân  để chụp, không nên chỉ xoay cánh tay để chụp. Trên phim ghi nhận được vị trí gãy, đường gãy, di lệch, mảnh rời...,trong trường hợp gãy bệnh lý, cần khám nghiệm thêm phim chụp cắt  lớp xương, chụp cắt lớp xử lý vi tính (CT Scanner), chụp cộng  hưởng từ (MRI) để nắm được giới hạn của xương  bệnh lý trước khi chỉ định điều trị.
Chẩn đoán
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng đặc hiệu như biến dạng, cử động bất thường, tiếng lạo xạo và hình ảnh chẩn đoán (X-quang, MRI...).
Nguyên tắc điều trị
Có nhiều phương pháp khác nhau có thể áp dụng để điều trị gãy thân xương cánh tay, đem lại kết quả tốt đẹp. Trong y văn, người ta đề cập nhiều đến  một tỷ lệ chậm liền xương và không liền xương trong phương pháp bảo tồn. Tuy nhiên, những tiến bộ gần đây về kỹ thuật nắn xương, bất động chi bằng nẹp bột, bó bột, nẹp plastic... đã làm giảm bớt đáng kể các di chứng này và làm cho phương pháp điều trị bảo tồn trở thành phương pháp được chọn lựa trong điều trị gãy thân xương  cánh tay. Trong khi đó, những  tiến bộ trong kỹ thuật bất  động xương trong hai mươi năm qua đã làm cho phương pháp điều trị gãy thân xương cánh tay bằng phẫu thuật đem lại kết quả lý tưởng, đặc biệt là đem lại kết quả chức năng sớm.
Điều trị bảo tồn (không mổ)
Thường không đạt được hình dạng giải phẫu của xương tốt, nhưng Klenerman cho thấy rằng gập góc ra trước 200 và gập vào trong tối đa 300   là cóthể chấp nhận được đối với thân xương cánh tay. Cần phải thao dõi  kiểm tra thường xuyên mới mong đem lại kết quả mỹ mãn được. Tùy thuộc vào kiểu gãy xương, cơ chế chấn thương, mức độ chấn thương mạnh hay nhẹ, mức độ sưng nề, tổn thương phần mềm, nhu cầu về cơ năng cũng như yêu cầu của bệnh nhân mà có thể lựa chọn các phương pháp khác nhau. Các phương pháp bảo tồn bao gồm:
Bột cánh tay treo
Phương pháp này do Caldwell giới thiệu năm 1933, ngày nay vẫn còn được  xem là phương pháp cơ bản trong điều trị gãy thân xương cánh tay. Nó được áp dụng tốt nhất trong các trường hợp gãy chéo, gãy xoắn hoặc gãy ngang có chồng ngắn. Thời gian đầu, có ý nghĩa nắn thẳng trục và chữa di lệch chồng ngắn, khi  kiểm tra sự kéo nắn đã đạt yêu cầu, có thể chuyển sang một phương pháp điều trị khác hoặc vẫn duy trì tiếp tục. Một khi lựa chọn duy trì tiếp tục bột cánh tay treo thì phải theo dõi kiểm  tra X-quang về tình trạng  xương bị kéo giãn quá và khả năng không liền xương.
Kỹ thuật cơ bản của phương pháp này là bó bột  tương đối nhẹ, từ 2cm trên chỗ  gãy đến cổ tay với khuỷu gấp 90cẳng tay tư thế trung gian, móc tạ 2-3  kg ngay dưới khủyu, thời gian 8-10 tuần. Hướng dẫn bệnh nhân luôn luôn để   cánh tay tư thế thẳng  đứng hoặc nửa thẳng đứng, như vậy xương cánh tay mới luôn bị kéo nắn được,  phải chụp X  -  quang kiểm tra hằng tuần trong 3  -  4 tuần đầu. Hạn chế của phương pháp này bao gồm ngắn chi, gập góc, biến dạng xoay, chậm liền xương hoặc không liền xương. Các biến chứng này hay gặp ở các bệnh nhâ béo mập, không chịu hợp tác trong quá trình   điều trị. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đã báo cáo một tỷ lệ liền xương từ   93-96% khi áp dụng phương pháp này.
Băng tam giác
Do Gilchrist mô tả, là phương pháp đơn giản, rẻ tiền, dễ làm, áp dụng đối với  các gãy không di lệch hoặc ít di lệch đối với trẻ dưới 8 tuổi, hoặc ở những người già không chịu nổi các phương pháp khác. Có thể dùng nhiều loại chất  đệm khác nhau chêm trong nách để điều chỉnh độ gập góc của ổ gãy
Nẹp bột chữ U (Coaptation splint)
Chỉ định trong gãy xương mới, điều trị tạm thời lúc đầu, các trường hợp gãy không di lệch hoặc ít di lệch, các trường hợp bệnh nhân không thể chịu đựng  được phương pháp bó bột cánh tay treo. Bột ôm hết nách, ôm vòng qua khối cơ Delta và ôm lấy khuỷu. Ưu điểm là bàn tay và cổ tay vận động tự do, khuỷu thì có thể vận động một phần. Nhược điểm là kích thích khó chịu vùng nách, thường liền xương tư thế hơi gập góc hoặc chi bị ngắn ít, bệnh nhân khó chịu.
Bột ngực vai cánh tay
Bột ôm ngực, vai và cánh tay, cánh tay ở tư thế dạng, ưu điểm là bất động tương đối cánh tay, nhưng hiện ít dùng vì quá nặng và gây khó chịu cho bệnh nhân, lại còn gây hạn chế vận động vai và tay để tư thế dạng lâu rất khó chịu. Ngày  nay, bột được thay thế bằng nẹp nhựa dẻo (abduction splint) nhẹ và thuận tiện hơn.
Bao ôm cánh tay
Là phương pháp điều trị bảo tồn hiện đại nhất, do Sarmiento đề xướng năm 1977. Bao chỉ ôm đoạn thân cánh tay và được ép  bởi  thủy lực.  Phương pháp này là đại diện cho sự ưu việt trong điều trị bảo tồn không mổ gãy thân xương cánh tay. Chỉ định khi gãy thân xương cánh tay đã hết sưng nề (trước đó được bất động bởi một trong các kỹ thuật trên), bệnh nhân được chỉ dẫn để cánh tay xuôi dọc thân mình càng nhiều càng tốt. Khi nào bệnh nhân tự dạng tay được 900 thì có thể tháo bỏ phương tiện ra. Ưu điểm là cho phép vận động được toàn bộ chi trên, tỷ lệ liền xương được báo cáo đạt 96-100%.
Điều trị phẫu thuật
Bao gồm các kỹ thuật sau:
Cố  định ngoài
Chỉ định trong gãy hở, có khiếm  khuyết da và phần mềm, các gãy vụn nhiều mảnh ở bệnh nhân có nhu cầu vận động sớm, các bệnh nhân gãy thân xương kèm tổn thương bỏng ở vùng khác cần lấy da để ghép, hoặc ở bệnh nhân có kèm gãy xương cẳng tay cùng bên.
Mổ kết hợp xương nẹp vít
Áp dụng kỹ thuật AO/ASIF (Arbeitgemeinschaft Fur Osteosynthesefragen/ The  Association for the Study of problems of Internal Fixation) đem lại kết quả tốt. Tuy nhiên có thể bị nhiễm trùng, liệt thần kinh quay hoặc đôi khi kết hợp xương không được.
Mổ đóng đinh nội tủy
Chỉ định trong các trường hợp nắn kín thất bại, gãy 1/3 giữa thân xương, gãy  có mảnh rời, gãy cũ không liền xương, gãy xương bệnh lý, gãy chéo hoặc gãy xoắn, ở bệnh nhân đa chấn thương. Chống chỉ định trong gãy kèm thương tổn thần kinh, gãy hở độ III.
Biến chứng
Liệt thần kinh quay
Gặp 18%  rong gãy kín thân xương cánh tay, trong số này 90% là liệt cơ năng (neurapraxia), bệnh nhân thường phục hồi tự nhiên sau 3-4 tháng. Liệt thần kinh quay cơ năng hay thoáng qua thường gặp sau các gãy ngang hoặc gãy chéo ngắn thân xương cánh tay. Đứt ngang thần kinh quay thường gặp trong các gãy hở, gãy liên quan với vết thương đâm chọc và trong lịch sử có nói đến gãy xoắn chéo đầu xa xương cánh tay (gãy Holstein-Lewis). Liệt thoáng qua của thần kinh gian cốt trước, thần kinh giữa, thần kinh trụ hiếm gặp, nếu có thì phục hồi tự nhiên sau 10  tuần. Liệt thần kinh giữa liên quan với các u xơ trên lồi cầu thì cần mổ giải phóng các giải xơ liên quan để liệt cải  thiện hoàn toàn.
Can xương liền tư thế xấu
Thường thì gập góc 20-300 hoặc ngắn  chi  2-3 cm ít để lại di chứng gì lớn. Biên độ vận động rộng của vai làm giảm đi ảnh hưởng của can xấu do xoay,  ngay cả những biến dạng lớn hơn cũng được thích nghi với một hạn chế cơ năng không đáng kể. Vấn đề thẩm mỹ ít khi được xem là chỉ định của phẫu thuật. Khi chỉ định mổ, đục cắt  xương và kết hợp xương vững chắc sẽ đem lại kết quả mỹ mãn.
Không liền xương
2-5%  ở bệnh nhân điều trị bảo tồn và 25% ở bệnh nhân được điều trị phẫu thuật ngay kỳ đầu. Không liền xương gặp nhiều hơn trong các gãy hở, gãy do chấn thương tốc độ cao, gãy có mảnh rời, các gãy mà nắn không tốt, gãy  được mổ nhưng bất động không vững. Các yếu tố thuận lợi là cứng khớp vai   hay khớp khuỷu có sẵn trước đó, phần mềm che phủ kém, bệnh nhân béo phệ, bị ung thư di căn, nghiện rượu dẫn đến loãng xương, đang điều trị với  corticosteroid, hoặc bị đa chấn  thương.
Nhiễm trùng không liền xương
Liên quan trực tiếp giữa bất động không vững và nhiễm trùng, đặc biệt trong gãy hở. Bất động vững, cắt lọc triệt để các mô chết kể cả xương, rửa sạch vết thương và dùng kháng sinh có hệ thống sẽ dẫn đến liền xương trong đa số các trường hợp. Việc đặt chuỗi cườm kháng sinh hoặc bơm kháng sinh tại chỗ đôi khi cần thiết  để khống chế tận gốc sự nhiễm trùng. Bất động bằng đinh nội tủy hay nẹp vít là chống chỉ định khi đang nhiễm  trùng, nhưng có thể dùng khi đã hết nhiễm trùng.
Không liền xương với khuyết xương
Khi không liền xương xảy ra kèm với khuyết xương trên 5cm thì đòi hỏi phải can thiệp phẫu thuật lại. Người ta khuyên nên ghép xương xốp dày có kèm theo vỏ xương, hoặc ghép xương có cuống mạch. Kỹ thuật bao  gồm cắt bỏ các mô xơ, tổ chức chết bao gồm cả đầu xương, làm thông lại ống tủy ở cả hai đầu xương, chèn xương  ghép vào giữa hai đầu gãy và bất động thật vững chắc.
Biến chứng mạch máu
Ítt gặp trong gãy kín, hay gặp trong gãy hở, gãy do dao chém hoặc hỏa khí. Nếu nghi ngờ có tổn thương mạch máu hoặc trong các gãy xương có nguy cơ cao tổn thương mạch máu thì nên chụp động mạch để xác định vị trí tổn thương để phục hồi lại. Việc phục hồi lại mạch máu được xem là chỉ định tuyệt đối trong các trường hợp bất động xương vững chắc với nẹp vit hoặc cố định ngoài. Trong đa số trường hợp, bất động xương gãy được thực hiện trước phẫu thuật mạch máu, cắt mở lớp cân ở cánh tay, cẳng tay hoặc bàn tay đôi khi cần thiết sau khi dòng máu được tái lập.
Dự phòng
Tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng về luật giao thông và lao động.
Cần giáo dục học sinh trong các trường phổ thông cơ sở nguyên nhân gây gãy xương để hạn chế các tai nạn xảy ra trong sinh hoạt và trong học đường.
Cần giáo dục cộng đồng sơ cứu tại chỗ tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương và phục hồi chức năng sau điều trị gãy xương.
Các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng gãy xương cánh tay.

Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng (= do chiều dài) thì nắn các di lệch sang bên, gập góc còn lại. Di lệch xoay đã được nắn khi đặt tư thế.



Đại cương
Gãy hai xương cẳng tay chiếm 15-20% các gãy xương ở vùng cẳng tay. Gặp ở mọi lứa tuổi. Là loại gãy xương có di lệch tương đối phức tạp, nhất là gãy 1/3 trên, nắn chỉnh hình khó khăn.
Nguyên nhân và cơ chế
Thường do té ngã, đánh nhau, tai nạn lưu thông.
Cơ chế trực tiếp: Ngã giập cẳng tay xuống mô đất cứng, giơ tay cản đỡ đòn... xương thường gãy ngang cả 2 xương ở cùng vị trí.
Cơ chế gián tiếp: Ngã chống tay khuỷu duỗi làm uốn bẻ gập 2 xương gây nên gãy chéo, xoắn, gãy bậc thang. Hai xương thường gãy ở hai vị trí khác nhau. Xương trụ  gãy thấp, xương quay gãy cao.
Cơ chế hỗn hợp: Vừa trực tiếp vừa gián tiếp, gây ra các kiểu gãy phức tạp: gãy 2 tầng, gãy có mảnh thứ 3...
Phân loại
Theo vị trí gãy trên xương quay chia ra:
Gãy 1/3 trên: Gãy trên chỗ bám cơ sấp tròn.
Gãy 1/3 giữa và 1/3 dưới: Gãy dưới chỗ bám cơ sấp tròn và cơ sấp vuông.
ý nghĩa của việc phân  loại này  nhằm đánh giá khả năng di lệch nhiều hay ít.
Gãy 1/3  trên
Đoạn gần ở tư thế ngửa hoàn toàn vì cơ ngửa ngắn và cơ nhị đầu kéo, đoạn  xa sấp do do cơ sấp tròn và cơ sấp vuông.
Gãy 2/3  dưới
Đoạn gần ngửa nhẹ vì ngoài hai cơ ngửa còn có sự tham gia ngược lại của cơ sấp  tròn, đoạn xa sấp vì cơ sấp vuông.
Các thể lâm sàng
Theo vị trí: Như trên.
Theo tuổi: Gãy xương ở người lớn.
Gãy xương ở trẻ em: Gãy tạo hình thì xương quay bị cong không thấy đường  gãy và gãy cành tươi thì xương chỉ gãy một bên vỏ xương, vỏ còn lại chỉ bị uốn cong.
Gãy kín hoặc gãy hở.
Chẩn đoán
Bệnh sử
Nguyên nhân và cơ chế.
Triệu chứng bệnh lâm sàng
Bao gồm dấu hiệu chắc chắn và không chắc chắn
Các dấu hiệu chắc chắn
Biến  dạng: Gập góc, ngắn, biến dạng bậc thang.
Tiếng lạo xạo: Phát hiện khi tìm điểm đau nhói hoặc cử động bất thường.
Cử động bất thường.
Dấu hiệu không chắc chắn:
Điểm  đau  nhói: Nếu có gãy xương thì nó chỉ vị trí gãy.
Sưng,  mất cơ năng: Đây là dấu hiệu cảnh giác, chỉ điểm, cần khám thêm các dấu hiệu khác.
Dồn gõ từ xa đau: Khó thực hiện làm, chỉ khi không có dấu hiệu chắc chắn của  gãy xương.
Cận lâm sàng
Chụp X-quang: Chụp 2 bình diện mặt và bên. Cả 2 đều để cẳng tay ở tư thế ngửa và lấy đủ các khớp hai đầu. Phim X-quang cho biết chính xác vị trí gãy, đường gãy và di lệch. Trên cơ sở đó ta có hướng điều trị.
Nguyên tắc điều trị
Sơ cứu
Gây tê ổ gãy: Dùng novocain 1-2% 10ml cho mỗi bên.
Đặt nẹp cố định: Nẹp gỗ, nẹp Cramer. Nên để cẳng tay ngửa khi đặt nẹp (để khi chụp X-quang không phải tháo nẹp).
Điều trị thực thụ
Nguyên tắc chung: Nắn - bất động - tập vận động.
Có hai phương pháp chính là điều trị bảo tồn và điều trị bằng phẫu thuật:
Điều trị bảo tồn: nắn kín và bó bột cánh - bàn tay
Vô cảm: Gây tê ổ gãy hoặc tê đám rối  hoặc gây mê (trẻ con nên cho gây mê).
Nắn xương: Theo 2 nguyên tắc:
Nắn đoạn gãy xa theo đoạn gãy gần.
Nắn di lệch chồng ngắn trước, các di lệch còn lại nắn sau. Vì vậy cần chú  ý khi nắn:
Phải đặt ở thế cẳng tay thích hợp tuỳ theo vị trí gãy: Nếu gãy 1/3 trên cẳng tay thì để ngửa hoàn toàn, còn gãy 2/3 dưới cẳng tay thì để ngửa nhẹ.
Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết  di lệch chồng (= do chiều dài)  thì nắn các di  lệch sang bên, gập góc còn lại. Di lệch xoay đã được nắn khi đặt tư thế.
Trong lúc nắn chú ý bóp vào giữa cẳng tay để tách màng liền cốt  để tránh sự   co kéo chạm đầu vào nhau giữa hai xương đầu và trụ.
Bất  động: Bó bột cánh-cẳng-bàn tay khuỷ gập 900. Trong lúc bó bột vẫn phải duy  trì lực kéo.
Có hai cách nắn bó:
Nắn bằng tay: Cần có 3 người: 1 người phụ giữ cánh tay, 1 người kéo cẳng tay và 1 người nắn.
Nắn bằng khung: Chỉ cần 1 người nắn. Bệnh nhân nằm ngửa, cánh tay dạng  900, khuỷu gập 900. Các ngón treo bằng các rọ may về phía trần nhà làm đối trọng. Lực kéo được đặt vào các cánh tay bằng các quả cân có trọng lượng  tăng dần tuỳ cơ thể bệnh nhân (có khi đến 7-10kg). Cẳng tay để ngửa hoàn   toàn khi gãy ở 1/3 trên và ngửa nhẹ khi gãy ở 2/3 dưới.
Đo chiều dài 2 xương, so sánh với bên lành, khi hết di lệch còn lại và tách màng liên cốt dựa vào phim X-quang
Bó bột cánh-cẳng- bàn tay chờ  bột khô mới bỏ tạ kéo. Nên rạch dọc bột nếu  chi sưng nề nhiều và cắt xén chỗ  bột  bó thừa nhất là ở lòng bàn tay (xem  thêm bài bó bột) Chụp X-quang kiểm tra sau khi  bó  bột. Nếu nắn tốt (di lệch đã nắn hết hoặc còn những di  lệch chấp nhận  được) có thể cho bệnh nhân về, hướng dẫn bệnh nhân tập vận động cử động các ngón tay, vai, kê cao chi  và tái khám bột theo thời gian quy định. Nếu nắn chưa tốt, có thể mở ra nắn lại lần thứ hai. Sau hai lần nắn mà vẫn không đạt yâu cầu nên chuyển phương pháp khác (mổ kết hợp xương  (KHX).
Điều trị bảo tồn thường có kết quả tốt ở các gãy xương dị lệch, gãy 2/3 dưới, gãy xương trẻ con.
Điều trị phẫu thuật
Phẫu thuật nhằm mục đích nắn lại chính xác và dùng dụng cụ KHX (như đinh, nẹp, vis) để cố định xương  gãy.
Ưu điểm:
Nắn xương được chính xác, phục hồi hình dáng giải phẫu ban đầu.
Có thể cố định xương gãy vững chắc (dùng nép AO) tránh được bất động các khớp, giúp bệnh nhân tập vận động, sớm, mau phục hồi  chức năng.
Khuyết  điểm:
 Có thể bị nhiễm trùng, viêm xương.
Có thể bị tổn thương thêm về giải phẫu và để lại sẹo ở tay.
Có thể có tai biến gây mê, gây tê...
Cần nhiều trang thiết bị tốt: Phòng mổ vô trùng, dụng cụ kết hợp xương chắc chắn và không gây dị ứng, phẫu thuật viên có tay nghề vững.
Phẫu thuật KHX thường dùng là:
Nẹp vít cho xương quay và xương trụ.
Nẹp vít cho xương quay, đinh Rush cho xương trụ.
Đinh Rush hoặc đinh nội  tủy cả hai xương.
Các loại đinh thường cố định không vững chắc do đó cần bó bột tăng cường 1 tháng.
Trong các gãy xương  hở, phẫu thuật chú ý là cắt lọc vết thương, cố định xương gãy thường dùng bó bột, cố định ngoài hoặc chỉ nên kết hợp xương  tối thiểu để giữ trục xương đồng thời bó bột tăng cường. Hạn chế dùng kết hợp xương phức tạp bên trong.
Biến chứng
Biến chứng sớm
Sốc chấn thương và tắc mạch máu do mỡ ít khi gặp trừ khi kết hợp nhiều tổn thương khác. Biến chứng thường gặp là:
Chèn ép khoang: Cẳng tay có 3 khoang, thường gặp chèn ép ở khoang trước (hội chứng Volkmann).
Chèn ép mạch máu, thần kinh.
Chọc thủng da dẫn đến gãy hở.
Biến chứng muộn
Can lệch: Thường gặp  do nắn không hết  dị lệch hoặc có dị lệch thứ phát trong bột mà không phát hiện, can lệch có thể là: chồng ngắn, gập góc, xoay,  hoặc 2 xương chụm đầu vào nhau (can liên cốt, can  chữ  X, K...) can lệch này làm mất chức năng sấp ngửa.
Khớp giả: Ít gặp hơn, thường do:
Chèn ép mô mềm vào hai đầu xương gãy.
Gãy nhiều mảnh, các mảnh dị lệch xa.
Mất đoạn xương (gãy hở).
 Kết hợp xương không vững chắc nhưng cho tập vận động sớm.
Nguồn dinh dưỡng kém thí dụ gãy 1/3 dưới xương trụ.
Hội chứng Volkmnn: Do chèn ép khoang điều trị không tốt.
Hội chứng rối loạn dinh dưỡng: Do bất động lâu ngày và không luyện tập dẫn đến teo cơ, loãng xương hạn chế vận động khớp.
Theo dõi, phục hồi chức năng sau điều trị
Nếu nắn tốt, bất động vững, xương sẽ liền sau hai tháng. Tập vận động thường xuyên trong thời gian bất động, giúp phục hồi chức năng tốt. Chú ý sấp ngửa cẳng tay đúng phương pháp.
Thời gian bất động bằng bột: 8-12  tuần, trẻ con: 4-6 tuần.
Nếu sau thời gian này xương chưa liền vững, có thể bất động thêm  2-4 tuần. Nếu vẫn không liền có thể có chậm  liền xương hay khớp giả.
Trong loại gãy xương cành tươi ở trẻ con, cần nắn cho gãy luôn vỏ xương còn lại sau đó bó bột như các gãy 2 xương cẳng tay khác.
Các thể lâm sàng gãy xương cẳng tay
Gãy đơn thuần một xương quay hoặc trụ
Gãy đơn thuần một xương quay hoặc trụ ít gặp hơn gãy xương cả hai xương.  Có  thể vì  lực tác động không đủ mạnh để bẻ gãy xương còn  lại. Tuy nhiên cần khám kỹ  2 khớp quay trụ trên và dưới để tránh bỏ sót tổn thương ở hai nơi này.
Thường gặp gãy 1/3 giữa xương quay hoặc 1/3 dưới xương trụ.
Về lâm sàng bệnh  nhân mất cơ năng không hoàn toàn, ít khi thấy biến dạng khi nhìn (có thể thấy biến dạng khi sờ (như bậc thang), có sưng nề, đau nhói vùng gãy và đôi khi có tiếng lạo xạo. Ấn dọc xương còn lại và các khớp không đau. Cần chụp X-quang toàn bộ cẳng tay, có thể thấy gãy ngang hoặc chéo, thường ít di lệch. (Nếu gãy có di lệch nhiều khi khó nắn).
Điều trị: Bảo tồn bằng nắn bó bột cánh-cẳng-bàn tay. Nếu thất bại thì phải mổ kết hợp xương, dùng đinh Rush hoặc nẹp vis.
Dự hậu thường tốt nếu nắn được tốt.
Gãy 1/3 dưới xương trụ có nguy cơ khớp giả hoặc chậm liền xương vì nguồn dinh dưỡng kém.
Thời gian bất động như gãy 2 xương cẳng tay.
Gãy trật Monteggia
Đặc điểm
Gãy 1/3 trên xương trụ kèm trật khớp quay-trụ trên (do đứt dây chằng vòng)   được Monteggia giới thiệu lần đầu tiên tại Milan vào 1814. Trong việc điều trị   nếu đến muộn thường khó nắn. Bó bột lâu ngày thường bị cứng khớp khuỷu,  nếu cố định không vững chắc, cho tập sớm khớp dễ bị trật lại và có nhiều nguy cơ khớp giả xương trụ.
Nguyên nhân và cơ chế
Gãy trật Monteggia có cơchế vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Xương trụ gãy do lực tác động trực tiếp, xương quay trật do lực gián tiếp. Nguyên nhân   thường thấy do bệnh nhận bị đánh trực tiếp vào cẳng tay và đưa tay lên đỡ. Tương tự cũng có thể do té đập cẳng tay vào bờ đất cứng ở tư thế gập khuỷu.
Phân loại
Phân độ của Bado gồm 4 type:
Chỏm quay trật ra trước, xương trụ gãy gập góc ra trước, chiếm 60% trường hợp.
Chỏm quay trật ra sau hoặc sau ngoài, xương trụ gãy gập góc ra trước chiếm 15%.
Chỏm quay trật ra ngoài hoặc trước ngoài, gãy vùng hành xương ở đầu trên của  xương trụ chiếm 20%.
Chỏm quay trật ra trước kèm gãy thân cả hai xương quay và trụ.
Hoặc có thể chia gãy Monteggia thành 2 thể:
Thể ưỡn: Chỏm xương quay trật ra trước, xương trụ gãy gập góc mở ra sau. (hay gặp).
Thể  gấp: Chỏm xương quay trật ra sau, xương trụ gãy gập góc mở ra trước. (ít gặp).
Chẩn đoán
Cơ chế chấn thương.
Triệu chứng lâm sàng:
Tìm các triệu chứng để chứng tỏ có gãy xương trụ và trật khớp quay trụ trên.
Dấu hiệu gãy xương trụ:
Sưng đau 1/3 trên xương trụ.
Biến dạng gập góc mở ra sau (thể ưỡn) hoặc mở ra trước (thể gập) đôi khi chỉ thấy biến dạng khi sờ dọc 1/3 trên xương trụ.
Dấu hiệu trật khớp quay-trụ trên: thể hiện qua trật khớp cánh tay-quay hay trật chỏm quay: chỏm quay không còn ở vị trí bình thường (ở trước mỏm trên lồi  cầu khi  khuỷu gập và dưới mỏm này khi khuỷu duỗi). Bệnh nhân bị hạn chế sấp ngửa cẳng tay.
X-Quang
Phim X-quang xác định có gãy xương trụ 1/3  trên và trật chỏm xương quay (mất khe khớp  cánh tay - quay, cái chấm của chữ i (lồi cầu) không có nằm ngay đỉnh của chữ  i (chỏm xương quay).
Điều trị
Có thể điều trị bảo  tồn hoặc phẫu thuật:
Bảo tồn
Nắn bó bột cánh-cẳng-bàn tay:
Dùng trong các gãy mới.
Nắn như nắn gãy hai xương cẳng tay. Cần đặc biệt chú ý nắn hết di lệch chồng của xương  trụ thì chỏm xương quay mới có thể vào được. Khi nắn đo chiều dài xương trụ đến khi hết di lệch chồng sẽ nắn đẩy chỏm quay vào.  Sau khi nắn, cho khuỷu gập  tối đa, kiểm tra lại vị trí chỏm xương quay, sau đó bó bột cánh - bàn tay khuỷu gập 900 cẳng tay để  ngửa, giữ bột  3 tuần, nếu chỏm quay không bị trật lại giữ bột thêm 3-5 tuần nữa tư thế căng tay trung tính.
Phẫu thuật
Nếu nắn không vào nên mổ sớm để đặt lại khớp và kết hợp xương  trụ. Xương  trụ gãy sẽ được cố định bằng đinh Rush (nếu gãy ngang) hoặc bằng nép vis (nếu gãy chéo hoặc nhiều mảnh).
Chỏm quay nắn vào nếu dễ bị trật lại cần tái tạo dây chằng vòng.
Trường hợp đến muộn, chỏm quay khó nắn vào (nếu nắn vào cũng dễ gây cứng khớp về sau), nên cắt bỏ chỏm.
Nếu chỏm quay không dễ dàng  bị trật lại thì sau mổ nên cho bệnh nhân tập vận động sớm để tránh hạn chế sấp ngửa.
Dự hậu và  biến chứng
Nếu nắn vào tốt, bệnh nhân sẽ  lấy lại được chức năng vận động.  Tuy nhiên cũng hay gặp nhiều biến chứng sớm:
Cal lệch, khớp giả xương  trụ.
Chỏm xương quay còn di lệch, bệnh  nhân bị mất chức năng sấp ngửa cẳng tay và không gặp khuỷu tối đa được.
Cứng khớp khuỷu; do nhiều nguyên nhân làm cốt hoá quanh khớp như nắn thô bạo, đắp thuốc...
Gãy trật Galéazzi
Là loại gãy 1/3 dưới xương quay kèm trật khớp quay trụ dưới.
Nguyên nhân và cơ chế
Thường do té chống tay cổ tay duỗi.
Tổn thương giải phẫu
Gồm có:
Gãy 1/3  dưới xương quay, rách màng liên cốt, trật khớp quay trụ dưới, đứt dây chằng tam giác hoặc gãy mỏm trâm xương trụ.
Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng lâm sàng và X-quang.
Triệu chứng lâm sàng: Sưng, đau và biến dạng 1/3 dưới xương  quay. Biến dạng rất  điển hình: cẳng tay gập góc mở ra ngoài, cổ tay lật sấp về phía  xương quay.  Mỏm trâm quay lên cao hơn mỏm trâm trụ.
X quang: xác định chẩn  đoán  các  tổn thương kể trên.
Điều trị
Sơ cứu
Gây tê ổ gãy: Dùng novocain 1-2% 10ml cho mỗi  bên.
Đặt nẹp cố định: Nẹp gỗ, nẹp Cramer. Nên để cẳng tay ngửa khi đặt nẹp (để khi  chụp X-quang không phải tháo nẹp).
Điều trị thực thụ
Nguyên tắc chung: Nắn, bất động, tập vận động.
Có hai phương pháp chính:
Điều trị bảo tồn:
Nắn kín và bó  bột cánh-cẳng-bàn tay được chỉ định trong các trường hợp gãy không di lệch.
Vô cảm: Gây tê ổ gãy hoặc tê đám rối  hoặc gây mê (trẻ con nên cho gây mê).
Nắn xương: Theo 2 nguyên tắc:
Nắn đoạn gãy xa theo đoạn gãy gần.
Nắn di lệch chồng ngắn trước, các di lệch còn lại nắn sau. Vì vậy cần chú ý khi nắn:
Phải đặt ở thế cẳng tay thích hợp tuỳ theo vị trí gãy:
Gãy 1/3 trên cẳng tay để ngửa hoàn toàn.
Gãy 2/3 dưới cẳng tay để ngửa nhẹ.
Kéo theo trục cẳng tay với lực kéo liên tục và tăng dần, đến khi hết di lệch chồng (= do chiều dài) thì nắn các di  lệch sang bên, gập góc còn lại. Di lệch xoay đã được nắn khi đặt tư thế.
Trong lúc nắn chú ý bóp vào giữa cẳng tay để tách màng liền cốt để tránh sự   co kéo chạm đầu vào nhau giữa hai xương đầu và trụ.
Bất động: Bó bột cánh-cẳng-bàn tay khuỷ gập 900. Trong lúc bó bột vẫn phải duy trì lực kéo.
Có hai cách nắn bó:
Nắn bằng tay: Cần có 3 người: 1 người phụ nữ  giữ cánh tay, 1 người kéo cẳng tay và 1 người nắn.
Nắn bằng khung: Chỉ cần 1 người nắn. Bệnh nhân nằm ngửa, cánh tay dạng 900, khuỷu gập 900. Các ngón treo bằng các rọ may về phía trần nhà làm đối trọng. Lực kéo được đặt vào các cánh tay bằng các quả cân có trọng lượng tăng dần tuỳ cơ thể bệnh nhân (có khi đến 7-10kg). Cẳng tay để ngửa hoàn toàn khi gãy ở 1/3 trên và ngửa nhẹ khi gãy ở 2/3 dưới. Đo chiều dài  2 xương, so sánh với bên lành, khi hết di lệch còn lại và tách màng liên cốt  dựa vào phim X-quang. Bó bột cánh bàn tay chờ bột khô mới bỏ tạ kéo. Nên rạch dọc  bột nếu chi sưng nề nhiều và cắt xén chỗ  bột bó thừa nhất là ở lòng bàn tay (xem thêm bài bó bột).
Chụp X-quang kiểm tra sau khi bó bột. Nếu nắn tốt (di lệch đã nắn hết hoặc còn những di lệch chấp nhận được) có thể cho bệnh nhân về, hướng dẫn bệnh nhân tập vận động cử động các ngón tay, vai, kê cao chi và tái khám bột theo thời gian quy định. Nếu nắn chưa tốt, có thể mở ra nắn lại lần thứ hai. Sau hai lần nắn mà vẫn không đạt yêu cầu nên chuyển phương pháp khác (mổ kết hợp xương).
Điều trị bảo tồn thường có kết quả tốt ở các gãy xương dị lệch, gãy 2/3 dưới, gãy xương trẻ con.
Điều trị phẫu thuật: Phẫu thuật nhằm mục  đích nắn  lại chính  xác và dùng dụng cụ  KHX (như đinh, nẹp, vít) để  cố định xương gãy. Chỉ định trong các  trường hợp gãy có di lệch.
Ưu điểm:
Nắn xương được chính xác, phục hồi hình dáng giải phẫu ban đầu.
Có  thể cố định xương gãy vững chắc (dùng nép AO) tránh được bất động các  khớp, giúp bệnh nhân tập vận động, sớm mau phục hồi chức năng.
Khuyết điểm:
Có thể bị nhiễm trùng, viêm xương.
Có thể bị tổn thương thêm về giải phẫu và để lại sẹo ở tay.
Có thể có tai biến gây mê, gây tê.
Cần nhiều trang thiết bị tốt: Phòng mổ vô trùng, dụng cụ KHX chắc chắn và không gây dị ứng, phẫu thuật viên có tay nghề vững.
Phẫu thuật kết hợp xương thường dùng là nẹp vis cho xương quay.
Trong các gãy xương hở, phẫu thuật chú  ý là cắt lọc vết thương, cố định xương gãy  thường dùng bó bột, cố định ngoài hoặc chỉ nên kết hợp xương  tối thiểu để giữ trục xương đồng thời bó bột tăng cường. Hạn chế dùng kết hợp xương phức tạp bên trong.
Dự phòng
Tuyên truyền và giáo dục trong cộng đồng về luật giao thông và lao động.
Cần giáo dục học sinh trong các trường phổ thông cơ sở nguyên nhân gây gãy xương để hạn chế các tai nạn xảy ra trong sinh hoạt và trong học  đường.
Cần giáo dục cộng  đồng sơ cứu tại chỗ tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương.
Đối với các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng và chuyển lên tuyến y tế chuyên khoa điều trị sớm để giảm thiểu các biến chứng do gãy 2  xương cẳng tay gây ra như hội chứng Volkmann, hạn chế vận động cẳng tay.
Giáo dục cho bệnh nhân tập luyện phục hồi chức năng sau điều trị

Nếu điều trị tốt có thể tránh được các biến chứng toàn thân, xương liền sau 3-4 tháng, không có di chứng. Nếu điều trị không tốt thì để lại nhiều biến chứng.



Đại cương
Gãy cổ xương  đùi là các trường hợp gãy xương mà đường gãy là ở giữa chỏm và khối mấu chuyển.
Thường gặp đối với người già, cho dù là một chấn thương nhẹ (như té đập mông).
Rất hiếm gặp ở người trẻ và trẻ em.
Tiên lượng về liền xương khá phức tạp do khớp giả và sự tiêu chỏm.
Thường đe doạ tính mạng bởi các  biến chứng như viêm phổi, nhiễm trùng tiết niệu, suy tim, lở loét do nằm lâu.
Nhắc lại các yếu tố quan trọng về giải phẫu
Điểm yếu
Nằm giữa hai hệ xương: Hệ quạt chân đế và hệ cung nhọn.
Về X quang
Các điểm cốt hoá
1 tuổi: Có điểm cốt hoá đầu xương.
5 tuổi: Xuất hiện thêm điểm cốt hoá ở mấu chuyển lớn.
8 tuổi: Phát triển mạnh các điểm cốt hoá ở đầu xương và mấu chuyển lớn.
10 tuổi: Xuất  hiện thêm điểm cốt hoá mấu chuyển bé.
13 tuổi: Đầu xương phát triển hoàn toàn nhưng các mấu chuyển chỉ dính chắc vào xương từ 16-18 tuần và chỏm xương dính chắc vào đùi từ 18-20 tuổi.
Đường cung cổ bịt
Là đường hình cung nối liên tục của  bờ cổ xương  đùi  và gờ trên lỗ bịt.
Góc cổ thân
Là góc được tạo bởi trục của cổ xương đùi và của thân xương đùi. Bình thường góc khoảng chừng 1300.
Về tuần hoàn nuôi dưỡng chỏm
Nhóm trên: Được hình thành từ 3-4 nhánh nhỏ tách ra từ động mạch mũ sau, nối với các nhánh mũ trước, nhánh bịt, các nhánh đi theo bao khớp vào nuôi  dưỡng khoảng trên của chỏm.
Nhóm dưới-trong: Tách ra từ động mạch mũ sau nuôi dưỡng 1/4 dưới của chỏm.
Động mạch dây chằng tròn: Tách từ động mạch bịt, có vai trò rất nhỏ chỉ nuôi dưỡng một phần của chỏm.
Phân loại
Theo Garden
Dựa vào các tương quan hiện có của các thớ xương dọc. Nếu sự tương quan còn  được duy trì, tức sự di lệch ít quan trọng và sự nuôi dưỡng chỏm sẽ tốt nhờ bao khớp còn nguyên vẹn. Tiên lượng sẽ tốt.
Độ I: Gãy dạng cài nhau, các thớ xương còn thẳng.
Độ II: Gãy cài không di lệch, các thớ xương còn giữ hướng thẳng nhưng bị lực ép giữa các xương gãy.
Độ III: Gãy di lệch khép, thớ xương nằm ngang.
Độ IV: Gãy rất di lệch, đầu xương tự do trong ổ cối, chỗ gãy tiếp xúc với dây chằng tròn, các thớ xương song song nhưng tách rời ra. Chỏm sẽ đe doạ hoại tử.
Theo Pauwels
Pauwels I: Đường gãy tạo với đường nằm ngang 1 góc tương đương 300,  dễ liền xương.
Pauwels II: Góc này tương đương 500, tiên lượng liền xương khó.
Pauwels III: Góc này tương đương 700, nguy cơ hoại tử chỏm cao.
Triệu chứng lâm sàng
Tuỳ theo dạng gãy (gãy khép hay dạng) mà biểu hiện các triệu chứng lâm sàng có khác nhau.
Gãy cổ chính danh dạng gãy khép
Thường hay gặp, các đoạn gãy tách rời xa bởi co kéo của cơ. Đoạn gãy dưới ở tư thế khép và xoay ngoài.
Giải phẫu bệnh
Vị trí
Loại gãy dưới chỏm: Loại này điều trị phức tạp vì chỉ còn chỏm xương nhỏ. Phần chỏm nuôi dưỡng kém chỉ còn động mạch dây chằng tròn do đó liền xương khó, dễ đưa đến khớp giả hoặc tiêu chỏm.
Gãy xuyên cổ: Tiên lượng tốt hơn loại trên vì còn một phần xương dính vào chỏm, dinh dưỡng tốt hơn.
Hướng đường gãy: Thường chếch từ dưới lên trên từ trong ra ngoài. 
Di lệch: Các đoạn gãy không cài nhau.
Đoạn xa di lệch lên trên do cơ mông kéo, hai đoạn xương gập góc, ở góc xuống dưới và ra sau.
Lâm sàng
Đau: Lệch thường, đau nhiều nhất là khi gắng cử động háng.
Mất cơ năng hoàn toàn: Lệch không thể nhấc chân lên khỏi mặt phẳng giường.
Biến dạng:
Chân gãy ngắn, đùi khép, bàn chân xoay ra ngoài.
Sờ thấy mấu động lớn bị kéo lên trên.
Có sự thay đổi của đường Nélaton Roser, bình thường thì gai chậu trước trên mấu động to, ụ ngồi ở cùng trên một đường thẳng. Khi gãy mấu động to bị kéo lên cao, ở trên đường nối gai chậu trước trên và ụ ngồi.
Có thể có tràn dịch khớp gối bên gãy.
X quang
Cần chụp thẳng và nghiêng háng bên gãy. Có thể thấy:
Đường  gãy ở bờ trong của cổ chéo xuống dưới và vào trong, hoặc đường gãy giữa cổ thẳng  góc với trục cổ xương.
Về di lệch thấy đoạn ngoài bị kéo lên trên chỏm xoay làm trục cổ xương bị gục xuống dưới. Trên phim nghiêng thấy 2 đoạn gãy không cài vào nhau, đó là dấu hiệu chính. Sau khi khám xác định gãy xương cần đánh giá tình trạng toàn thân để có chỉ định và điều trị phù hợp.
Gãy cổ chính danh gãy dạng
Ít gặp hơn gãy khép vì hai đoạn cài nhau.
Lâm sàng
Sau ngã đập khối mấu chuyển xuống đất, xương gãy và làm cài cổ xương.   Triệu chứng lâm  sàng thường không rõ ràng, giảm cơ năng không hoàn  toàn, bệnh nhân có thể nhấc gót chân khỏi giường và có trường hợp vẫn đứng dậy được, sau đó đoạn gãy có thể bị tách rời ra trở thành gãy khép.
X quang
Đường gãy dưới chỏm hoặc xuyên cổ gần như là ngang. Hai đoạn gãy cài nhau làm mở rộng góc cổ thân.
Tiến triển và biến chứng
Nếuđiều trị tốt có thể tránh được các biến chứng toàn thân, xương liền sau 3-4 tháng, không có di chứng. Nếu điều trị không tốt thì để lại nhiều biến chứng.
Biến chứng sớm
Choáng chấn thương: Hiếm gặp.
Thương tổn phối hợp: Tổn thương ổ khớp hoặc gãy xương đùi.
Biến chứng muộn
Toàn thân
Thương tổn loét da, loét mông, gót chân xương cùng.
Thương tổn tim phổi: Viêm phế quản, viêm phổi, nguy cơ suy tim.
Biến chứng tiết niệu: Nhiễm khuẩn đường tiết niệu.
Tai biến huyết khối: Viêm tĩnh mạch và huyết khối phổi.
Tại chỗ
Can lệch: Trong tư thế háng  khép, gãy ngắn chi 4-5cm và có thể bù trừ bằng cong chậu hông, cột sống, đi dép đế cao.
Can xấu: Dễ có nguy cơ thoái hoá khớp nhất là khớp háng, cột sống.
Khớp giả: Do thiếu sót về điều trị như bất động kém, tập vận động sớm.
Triệu chứng lâm sàng gợi ý là đi đau, đi khó như bước hụt, cần chụp X quang để xác định.
 Nguyên tắc điều trị
Phương pháp chỉnh hình
Áp dụng đối với gãy cài: Đây là các trường hợp tiên lượng tốt, không bắt buộc bệnh nhân phải nằm yên trên giường. Bệnh nhân có thể nhấc gót chân và nếu được có thể bước đi. X quang phải được kiểm tra để theo dõi đường  gãy. Tuy nhiên nguy cơ di lệch thứ phát là rất quan trọng, phải can thiệp  phẫu thuật. Do vậy cần phải đề phòng di lệch thứ phát.
Một số phẫu thuật viên điều trị với nằm nghỉ tại giường và vận động chân nhẹ nhàng. Tác giả khác thích bó bột chậu đùi để tập  đi dần dần và giúp nhanh liền xương.
Theo điều trị cổ điển, người ta điều trị với bó bột Whitman là loại bột dựa vào xương ức sát nách xuống đến các ngón chân. Khi  bột khô cho bệnh nhân tập  đứng, đi và để bột khoảng 3-4 tháng. Tuy nhiên do bột nặng nề chỉ áp dụng cho người khoẻ mạnh.
Kéo liên tục: Nếu không thể bó bột được, người ta xuyên đinh qua đầu dưới xương đùi và kéo liên tục trên giàn Braun với háng dạng, bàn chân xoay trong. Tuy nhiên do kéo bệnh nhân phải nằm lâu dễ có biến chứng toàn thân, do vậy ít áp dụng.
Phương pháp phẫu thuật
Được chỉ định với mọi  trường hợp gãy di lệch. Các trường hợp này có thể liền xương tự nhiên và tiến đến khớp giả lỏng với ngắn chi và điểm tựa không tốt trên chi. Mục đích của điều trị là để tránh nằm lâu trên giường do vậy hoặc là kết hợp xương vững chắc để  cho phép tập  đi với nạng và chống chân dần phía gãy và tập luyện phục hồi chức năng sớm, hoặc là phẫu thuật thay khớp háng để cho phép chống chân đi lại tức khắc.
Kết hợp xương: Trước hết cần nắn  trên bàn chỉnh hình  với gây mê toàn thân và kiểm tra X quang.
Có nhiều phương pháp phẫu thuật như dùng đinh, vít đơn thuần, vít ép DHS  (Dynamique Hip Scew),  đinh-nẹp, nẹp L... sau phẫu thuật phải cho phép tập  vận động sớm và tựa dần dần trên chi gãy. Tựa chân hoàn toàn khi có sự liền xương thấy rõ trên X quang, thường sau 2 tháng phẫu thuật. Các phương pháp phẫu thuật thường phụ thuộc từng trường  phái cũng như thói quen của phẫu thuật viên.
Thay khớp háng: Có 3 loại: khớp giả chỏm, khớp  giả trung gian và toàn bộ.
Khớp giả chỏm: Được sử dụng từ 1952, nó chỉ thay thế chỏm xương đùi bằng một chỏm kim loại nối liền với một thân dài cắm ở thân xương đùi. Phẫu thuật rất nhanh chóng và ít ảnh hưởng lớn đối với những người có thể trạng kém. Các bước sau phẫu thuật rất đơn giản, bệnh nhân có thể đứng dậy vào ngày hôm sau.
Loại khớp giả chỏm này có 2 bất tiện đó là dễ gãy mòn sụn ổ cối và dễ lún sâu phần thân của khớp giả vào ống tuỷ.
Để  khắc phục nhược điểm thứ hai, người ta dùng xi măng để cắm thân khớp giả vào ống tuỷ hoặc thay thế bằng một thân tương ứng với đường kính   ống  tuỷ. Sự phù hợp kích thước của thân khớp giả với ống tuỷ là rất thuận lợi dù  có dùng xi măng hay không. Để tránh nhược điểm  thứ nhất, người ta cải tiến  và dùng khớp giả  trung gian, tức ổ cối được bảo  vệ bằng một chỏm di động nằm giữa chỏm giả và ổ  cối. Do vậy phần sau được bảo vệ và thời gian mòn kéo dài hơn.
Khớp giả toàn bộ (prothèse totale): Áp dụng trong các trường hợp mặt sụn ổ    cối không được tốt, đặc biệt các trường hợp gãy cổ xương trên một háng đã   có thoái hoá trước đó.
Người ta thay một khớp háng toàn bộ với hai mảnh tách rời được cắm trực tiếp vào ổ cối và thân xương đùi.
Vấn đề chỉ định điều trị
Phụ thuộc vào tuổi:
Ở trẻ em và giới trẻ: Chỉ định kết hợp xương cho mọi  hình thái gãy xương, với bắt vít đơn thuần hoặc vít ép (DHS).
Ở người già: Chỉ định phụ thuộc tình trạng bệnh nhân, tuổi già hay quá già,  tình trạng tinh thần, tình trạng sống như thế nào, có bệnh lý khác kèm theo không.
Nếu < 60 tuổi thì kết hợp xương.
65  - 70  tuổi có thể kết hợp xương nhưng phần lớn đều thay khớp và cho phép vận động tức khắc và nên dùng thay khớp toàn bộ ở tuổi này.
75 - 80 tuổi: dùng khớp bán phần.
> 80 tuổi: dùng khớp giả chỏm.
Tiên lượng
Hoại tử chỏm có thể xảy ra trong thời gian kết hợp xương đến 2 năm nhất là các trường hợp gãy xương di lệch nhiều.
Khớp giả sau kết hợp xương
Viêm ổ cối do chỏm giả, lỏng xi-măng ở thân khớp giả.
Dự phòng
Tuyên truyền và giáo dục trong cộng  đồng về luật giao thông và lao động.
Cần giáo dục cộng đồng sơ cứu tại chỗ tốt các trường hợp gãy xương để hạn chế các biến chứng trong gãy xương.
Đối với các tuyến y tế cơ sở cần chẩn đoán sớm, xử lý đúng và chuyển lên tuyến y tế chuyên khoa điều trị sớm để giảm thiểu các biến chứng do gãy cổ xương đùi.
Giáo dục cho bệnh nhân tập luyện phục hồi chức năng sau điều trị.

Bệnh trĩ là một bệnh do tĩnh mạch trực tràng hậu môn bị dãn rộng và sung huyết. Đám tĩnh mạch ở dưới niêm mạc gồm nhiều xoang tĩnh mạch to nhỏ, không đều nhau. Khi nó dãn ra gây nên búi trĩ vì vậy có thể có một búi trĩ riêng biệt hoặc nhiều búi trĩ dính vào nhau.

Với sụ phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, hiện nay phòng khám đa khoa Thanh Trì chúng tôi đang cho di vào ứng dụng 3 loại máy móc tân tiến với 3 liệu trình điều trị tích cực sau đây:


1. Phòng khám đa khoa Thanh Trì chúng tôi hiện đang ứng dụng công nghệ PPH của Nhật trong thăm khá và điều trị trĩ nội, hệ thống thiết bị này ứng dụng công nghệ tiên tiến với màn hình hiển thị trong suốt quá trình phẫu thuật, tạo thuận lợi cho bệnh nhân quan sát trong suốt quá trình tiểu phẫu, tránh được việc chẩn doán nhầm. Các chuyên gia phòng khám đa khoa Thanh Trì khuyên bạn nên lựa chọn phương pháp phẫu thuật nội soi thay cho phương pháp cắt trĩ truyền thống, như vậy vừa an toàn hơn, không đau và cũng không sợ tái phát.



Bệnh trĩ hay còn gọi là bệnh lòi dom là bệnh được tạo thành do giãn quá mức các đám rối tĩnh mạch trĩ (hay sự phình tĩnh mạch) ở mô xung quanh hậu môn. Có hai loại trĩ là trĩ nội và trĩ ngoại. Bệnh trĩ có thể gây ra những biến chứng sau:

Đau đớn và chảy máu: Mắc bệnh trĩ ở cấp độ nặng nhất, búi trĩ sẽ thòi ra ngoài, gây đau đớn cho người bệnh do bị cọ sát trong khi vận động. Trĩ quá nặng sẽ khiến thành mạch máu giãn mỏng nên rất dễ thủng, dễ rách và chảy máu gây mất máu. Nếu chảy máu nhiều và tình trạng này kéo dài sẽ làm người bệnh bị thiếu máu. Khi đó, biến chứng này của bệnh trĩ sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng.




Tắc nghẽn: Búi trĩ to, máu dễ đông lại thành cục, gây tắc nghẽn và đau dữ dội cho người bệnh.

Bội nhiễm: Đây là biến chứng rất nguy hiểm có thể dẫn tới mắc các bệnh tật khác do bội nhiễm. Khi trĩ thòi ra ngoài lâu gây chảy máu,nứt kẽ hậu môn, thậm chí rặn quá nhiều còn ảnh hưởng tới tầng sinh môn. Nứt, rách hậu môn và tầng sinh môn rất dễ bị bội nhiễm vi khuẩn từ phân và nước tiểu.


Ngày nay, tỷ lệ nữ giới mắc các bệnh về táo bón cao hơn nam giới rất nhiều, các bạn nữ nên chú ý làm tốt công tác phòng chống căn bệnh này. Vậy thì nữ giới nên phòng chống bệnh này như thế nào? Sau đây chúng ta cùng lắng nghe ý kiến của chuyên gia

Phụ nữ nên phòng ngừa bệnh táo bón như thế nào?

1. Duy trì đại tiện dễ dàng, tạo thói quen đại tiện theo giờ mỗi ngày, khi bị táo bón, không nên gắng sức rặn, mà nên dùng nước muối ấm để tháo thụt phân hoặc cho vào trong hậu môn cho nhuận tràng, thông tiện.

2. Kịp thời điều trị viêm hốc hậu môn, nhằm ngăn ngừa sau khi viêm nhiễm hình thành viêm loét và lỗ rò dưới da.

3. Khi sử dụng thiết bị kiểm tra hậu môn, tránh thao tác mạnh làm tổn thương ống hậu môn.



4. Kịp thời điều trị các bệnh gây nên chứng táo bón như: viêm, loét kết tràng nhằm phòng ngừa việc dẫn đến nứt kẽ hậu môn, v.v...

5. Các bạn nữ cần đề phòng nứt kẽ hậu môn, không uống rượu, không ăn đồ cay nóng, đồ ăn uống cũng không nên quá thanh đạm mà nên kết hợp thức ăn có hàm lượng nhiều chất xơ, rau xanh, v.v... để đại tiện được đễ dàng.

Các bạn nữ nên điều trị như thế nào khi bị táo bón:

Về mặt lâm sàng, biểu hiện của chứng táo bón gây nứt kẽ hậu môn không giống nhau, chia thành giai đoạn vết nứt mới và giai đoạn vết nứt cũ. Do vậy cách điều trị cũng nên chia theo giai đoạn

1. Táo bón gây Nứt hậu môn giai đoạn đầu: các bác sĩ khuyên nên thoa kem bôi vào hậu môn nhằm làm giãn tĩnh mạch, giảm áp lực cơ vòng hậu môn, cầm máu và giảm đau. Sau đó, kết hợp trị liệu đông y để điều tiết bên trong cơ thể nhằm đạt mục đích chữa trị hiệu quả nứt hậu môn.

2. Điều trị vết nứt cũ, đầu tiên là áp dụng liệu pháp HCPT để làm hồi phục nhanh vết nứt, giảm viêm nhiễm, sau đó kết hợp thuốc ngâm rửa nhằm đạt được mục đích điều trị.

Ngoài ra hiện phòng khám đa khoa Thanh Trì áp dụng phương pháp thủy liệu đại tràng với thiết bị tiên tiến của Mỹ, điều trị dựa trên nguyên tắc “làm sạch, điều tiết, phục hồi nhanh” liệu pháp này đã có hiệu quả rõ rệt với bệnh nứt hậu môn và các bệnh lý về hậu môn khác, đồng thời xóa bỏ suy nghĩ sợ bệnh tái phát của người bệnh. Phương pháp thủy liệu đại tràng với thiết bị của Mỹ không chỉ là 1 phương pháp điều trị bệnh mà còn là 1 cách bảo dưỡng sức khỏe của cuộc sống hiện đại .

Lời khuyên của chuyên gia Thanh Trì: các bạn nữ cần chú ý làm tốt công tác phòng bệnh, khi phát hiện các triệu chứng nứt kẽ hậu môn, cần kịp thời đến bệnh viện có chuyên khoa về hậu môn trực tràng để điều trị, không nên để quá lâu. Sau cùng, xin chúc các bạn luôn mạnh khỏe và trẻ đẹp.
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -